Kính thưa:
-
-
-
-
-
-
Trong không khí phấn khởi chào mừng thắng lợi của
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; Chào mừng kỷ niệm lần thứ 41
năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước
(30/4/1975-30/4/2016); Chào mừng kỷ niệm lần thứ 61 năm ngày giải phóng thành
phố Hải Phòng (13/5/1955-13/5/2016)
Và khí thế tích
cực chào đón ngày Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021; chuẩn bị kỷ niệm 25 năm ngày tái lập tỉnh Lào Cai
(1991-2016),
Hôm nay chúng ta họp mặt tại đây để long trọng Kỷ niệm 55 năm nhân dân Hải Phòng vâng theo
lời Bác lên xây dựng Kinh tế-Văn hóa-An ninh-Quốc phòng tại tỉnh Lào Cai
thực hiện Nghị quyết Số 26-NQ/TW, tháng
7 năm 1961 của BCHTW lần thứ 5 (Khóa III) “Về vấn đề phát triển nông nghiệp
trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất”.
Trước hết, thay
mặt BCH Hội đồng hương Hải Phòng tỉnh Lào Cai tôi xin bày tỏ lòng biết ơn Đảng
bộ, nhân dân các dân tộc Lào Cai đã cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ, nhường đất,
nhường ruộng, sẻ chia kinh nghiệm cho bà con chúng tôi từ buổi đầu những năm
1960 trình bày về quá trình, kết quả và
ý nghĩa của công cuộc 55 năm đầy sôi động, ân nghĩa đó. Và sau đó, đã quan tâm,
giúp đỡ, động viên, ủng hộ tạo điều kiện để các thế hệ thứ 2, thứ 3, thứ 4
người Hải Phòng được lao động, học tập, công tác, rèn luyện và trưởng thành
trên vùng biên giới “phên dậu quốc gia” này cũng như tạo điều kiện cho buổi Lễ
long trọng này.
Đồng thời chúng tôi cũng xin cảm ơn Đảng bộ, chính
quyền các cấp, nhân dân và các Doanh nghiệp cùng bà con quê hương Hải Phòng đã
không quên đồng bào khai hoang, không quên những người từ nơi “chôn rau cắt
rốn” ra đi định cư, lập nghiệp nơi biên ải. Lãnh đạo và nhân dân thành phố Cảng
đã, đang và sẽ có những việc làm cụ thể giúp đỡ, động viên về tinh thần và vật
chất với đồng bào người Hải Phòng đi khai hoang, một trong những nhân tố để hơn
4 vạn người chúng tôi trụ vững và phát triển trên quê hương Lào Cai yêu dấu.
Kính thưa các đ/c lãnh đạo. quý vị đại biểu cùng
toàn thể bà con!
Trước hết, cần khẳng định rằng cuộc vận động người
Hải Phòng lên khai hoang tại Lào Cai từ đầu nhẵng năm 1960 là sự tiếp nối truyền thống cha ông:
Việc phân bố lại dân cư, sử dụng hợp lý các nguồn
lực sức lao động và tài nguyên nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế và xoá đói
giảm nghèo đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng miền
trong cả nước gắn với mục tiêu bảo vệ an ninh và quốc phòng đã có từ lâu trong
lịch sử. Khi dân số tăng
đồng bằng trở nên “đất chật, người đông”, chúng ta học tập tiền nhân lên miền
núi khai hoang những vùng “đất rộng người thưa” góp phần củng cố sức mạnh của
miền biên ải.
Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp và miền
Bắc được giải phóng, Nghị quyết Trung ương V (tháng 7/1961) về phát triển nông
nghiệp nhằm thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) đã chủ trương đưa
đồng bào miền xuôi lên khai hoang miền núi. Cũng trong năm 1961, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã phát động phong trào miền xuôi đi xây dựng và phát triển kinh tế -
văn hoá miền núi dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Đây là cuộc di dân có
tổ chức lớn nhất, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và lịch sử đã chứng minh những
bài học kinh nghiệm từ những năm 1960 vẫn còn nguyên giá trị với từng gia đình,
địa phương.
Kính thưa các quý vị!
Công cuộc khai hoang miền núi đó được khởi động và
diễn ra trong Bối cảnh mới, cần có những
quyết sách mới:
Những năm 60 của Thế kỉ
XX là những năm Miền Bắc đã hoàn thành cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế,
đến 1958 bắt tay vào cải tạo XHCN và hoàn thành trong năm 1960. Quán triệt Nghị
quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III tháng 9/1960 của Đảng, thực hiện Kế hoạch 5
năm lần thứ Nhất đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục cuộc đấu
tranh chống Mỹ cứu nước hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực
hiện thống nhất nước nhà.
Trong bối cảnh đó, Bộ
Chính trị đã tiến hành: “… mở một cuộc vận động
giáo dục sâu rộng về việc thực hiện nhiệm vụ khai hoang trong nhân dân, định rõ
trách nhiệm cho các địa phương trong công tác chỉ đạo khai hoang… tạo điều kiện
tiếp thu thêm nhân lực để khai hoang”. Mục đích là: “Xây dựng
dần dần miền núi thành những vùng nông nghiệp mới có tính toàn diện, biến miền
núi từ một nền kinh tế tự cấp tự túc, dần dần trở thành một nền kinh tế có
nhiều sản phẩm hàng hoá; không ngừng cải thiện đời sống nhân dân các dân tộc và
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá XHCN và củng cố quốc phòng”.
Quán triệt chỉ đạo của Đảng, tại Đại hội Đảng bộ
tỉnh Lào Cai lần thứ III, tháng 2/1961 xác định mục tiêu, nhiệm vụ khai
thác tiềm năng nông nghiệp, lâm nghiệp trên địa bàn. Đây cũng là việc mở hướng
thu hút nhiều nhân lực mới từ miền xuôi lên, góp phần phân bố lại dân cư tại
địa phương, hỗ trợ các tỉnh miền xuôi trong tổng thể nền kinh tế chung của miền
Bắc trước tình hình mới.
Thực hiện mục tiêu trên đòi hỏi công tác chỉ đạo, tổ
chức thực hiện đồng bộ, có biện pháp tác động mạnh mẽ tới phong trào địa
phương, nhất là ở cơ sở. Đảng bộ tỉnh Lào Cai chủ trương: “Tích cực củng cố
phong trào hợp tác hoá trong nông nghiệp, đưa toàn bộ các hộ nông dân vào HTX;
Phát huy tính ưu việt của quan hệ sản xuất mới và sức mạnh tập thể để tiến hành
thuỷ lợi hoá, xây dựng các công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ, từng bước chủ động
tưới tiêu, thúc đẩy khai hoang, phục hoá và tăng vụ; vận động nhân dân thâm
canh, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất như: Giống mới, sử dụng
phân chuồng, phân xanh, làm cỏ sục bùn, không để nước chảy tràn bờ; Phát triển
cây dược liêụ, giống rau màu và cây ăn quả; Hình thành dần các vùng sản xuất có
trọng điểm như vùng lúa Bảo Thắng, Mường Khương; ngô-đậu tương Bắc Hà, Mường
Khương, vùng dược liệu, hạt rau Sa Pa, Bắc Hà; khuyến khích thành lập các HTX
tiểu Thủ công nghiệp, sản xuất nông cụ cầm tay phục vụ nông - lâm nghiệp và chế
biến thực phẩm. Những giải pháp trên nguồn nhân lực mới được bổ sung sẽ là lực
lượng nòng cốt triển khai, đồng thời thúc đẩy đồng bào dân tộc thiểu số
tham gia”.
Cũng trong thời gian đó, quán triệt các Nghị quyết của
Trung ương, Đảng bộ tỉnh Kiến An đã hướng tới vùng đất giầu tiềm năng đất đai,
khoáng sản, tài nguyên nơi “đất rộng người thưa” là tỉnh Lào Cai.
Kính thưa các quý vị:
Những tư tưởng lớn gặp nhau trở thành quyết tâm cao,
từ đó lãnh đạo 2 tỉnh đã có những chủ
trương, kế hoạch, bước đi thích hợp. Cụ thể là:
Để cuộc vận động có hiệu quả, tỉnh Lào Cai đã tổ
chức các đoàn cán bộ về trao đổi công tác với các tỉnh đồng bằng như Kiến An,
Hải Dương, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình và tiến hành kết nghĩa toàn diện và xây
dựng, thông qua được chủ trương, Nghị quyết chung giữa Tỉnh uỷ Lào Cai
với các tỉnh. Nhiều biện pháp được tiến hành đồng bộ, như đưa cán bộ cơ
sở các tỉnh miền xuôi lên khảo sát thực tế, cử các đoàn cán bộ địa
phương, cơ sở ở Lào Cai về xuôi tham quan, thành lập các Ban liên hợp để chỉ
đạo.
- Đáng chú ý, ngày 28/4/1961 Tỉnh uỷ Kiến
An ra Quyết nghị số 4/QNN/TU lập bộ phận “Nghiên cứu và xây dựng kế hoạch, tổ
chức vận động nhân dân đi khai hoang ở tỉnh Lào Cai” gồm 4 đ/c do đ/c Tụng
(Tỉnh uỷ viên, Trưởng ban công tác nông thôn) phụ trách.
Bộ phận này đã xúc tiến
nhiều việc
trong đó có việc khắc phục khó khăn về giao thông, khảo sát thực tế tại Lào
Cai. Sau đó ngày 12/11/1961 Hội
nghị Đại biểu BCH tỉnh Đảng bộ 2 tỉnh Kiến An (Bí thư Lê Huy là Trưởng đoàn) và Lào Cai (Bí thư kiêm Chủ tịch Hoàng Trường Minh là trưởng đoàn) đã ra Nghị
quyết về việc kết nghĩa toàn diện giữa 2 tỉnh, trong đó có việc vận động nhân dân Kiến
An lên Lào Cai khai hoang nhằm “phối hợp điều hòa nhân lực và phát
triển kinh tế giữa hai tỉnh” với 5 năm 1961-1965 vận động 8-9 vạn
nhân dân Kiến An lên Lào Cai.
Sau khi Ban Bí thư nhất
trí chủ trương, Quốc hội khóa II, tại kì họp thứ 5 ngày 27/10/1962 đã ra Nghị
quyết hợp nhất Hải Phòng-Kiến An lấy tên là Hải Phòng. Đại hội Đảng bộ Hải Phòng lần thứ Nhất (10/7-14/7/1963) đề
ra nhiều quyết sách, trong đó có việc tiếp tục đưa nhân dân Hải Phòng lên khai
hoang tại Lào Cai.
- Trong khi đó, Đại hội Đảng bộ
tỉnh Lào Cai khóa IV họp 15/6/1963 đã rút kinh nghiệm và khẳng định: “việc tiếp nhận đồng bào miền xuôi cần khẩn
trương, không kể thời vụ, tiến hành cả 4 mùa. Đảm bảo chế độ chính sách trợ cấp
về lương thực, thực phẩm và vải cho đồng bào khai hoang” . Trong điều kiện
đó, ngày 05/9/1963 Phó Chủ tịch UBHC tỉnh Lào Cai dẫn đầu đoàn đại biểu tỉnh
Lào Cai gồm 17 người về thăm Hải Phòng. Trong 10 ngày lưu lại thành phố Cảng
đoàn đã được Hải Phòng đón tiếp và 2 tỉnh đi đến nhiều quyết sách mới.
Đây là cuộc vận động
lớn, công
tác chính trị tư tưởng được coi trọng và có nhiều cách làm mới có ý
nghĩa cách mạng to lớn, đóng góp vào cuộc cách mạng tư tưởng - văn hoá, cách
mạng quan hệ sản xuất, cách mạng KHKT. Do vậy, đã đem lại luồng sinh khí mới
cho cuộc vận động dãn dân ở các tỉnh miền xuôi và tinh thần xây dựng hậu phương
lớn, đón nhận đồng bào lên xây dựng quê mới ở Lào Cai.
Các đoàn công tác kết
nghĩa tỉnh, huyện, xã đã về tận địa bàn nơi dân đi, dân đến các
địa phương theo quy hoạch tiến hành khảo sát thực tế, làm tốt công tác chuẩn bị nhằm tạo sự hiểu
biết, tin tưởng vào chủ trương cuộc vận động, phá bỏ nhiều mặc cảm về miền núi,
dân tộc. Cụ
thể:
- Nhiều thôn, xã miền xuôi tổ
chức nhiều hình thức vận động, cho họp họ, họp thôn, vận động, giao nhiệm vụ
cho đảng viên chỉ đạo, cùng đồng bào lên lập nghiệp ở quê mới.
- Trong khi đó ở Lào Cai, chính
quyền các cấp đã làm tốt công tác tuyên truyền đón đồng bào xuôi lên, nhường
đất canh tác, giúp các hộ mới làm nhà, nhanh chóng ổn định đời sống.
Kính thưa các đ/c lãnh đạo, quý vị đại biểu và bà
con:
Có chủ trương đúng, thông trong tư tưởng, Việc
tổ chức thực hiện đã đạt nhiều kết quả với bước đi phù hợp:
Mở đầu, tháng 3/1961, hơn 500 cán bộ, đảng viên, lao
động trẻ khoẻ là những người con ưu tú của các làn xã trong các huyện Vĩnh Bảo,
Tiên Lãng, Kiến Thuỵ, An Lão, An Dương, Đồ Sơn thuộc Kiến An có mặt trong đoàn
khai hoang lên xây dựng Hợp tác xã tập trung Sơn Hải thuộc xã Sơn Hà (1965 tách ra thành 2 xã là Sơn Hà và Sơn Hải),
huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai mà các Đội được thành lập lấy ngay tên huyện ở quê
làm tên Đội.
Sau đoàn đầu tiên ấy, tỉnh Lào Cai tiếp nhận thêm
trên 600 cán bộ, đảng viên, lao động chính, khoẻ mạnh của Hải Phòng lên xây
dựng 2 hợp tác xã tập trung là An Trà (xã
Sơn Hà), Tân Thành (xã Phố Lu)
đều thuộc huyện Bảo Thắng. Tiếp theo đồng bào từ tỉnh Kiến An lên
được lãnh đạo tỉnh
Lào Cai cùng lãnh đạo các huyện Bảo Thắng, Mường Khương, Bát Xát
đón tiếp tại Ga Phố Lu, Làng Giàng, Phố Mới đưa về các bản, xã. Đến 1963 đã thành lập 25 HTX
khai hoang độc lập và 22 hợp tác xã xen kẽ đồng bào khai hoang và đồng bào sở
tại trong tổng số 410 HTX tại Lào Cai. Nhiều điển hình tiên tiến trong sản xuất
xây dựng tại các HTX khai hoang như An Trà, Sơn Hải, Giao Bình, Hoà Lạc,
An Lạc (Bảo Thắng), An San, Quang
Kim, Đông Thái (Bát Xát) Bản Sen (Mường Khương), Bản Mẹt, Bảo Tân (Bắc Hà), Đông Du, Đông Xá, Tân Khai (Sa Pa) được nhân ra diện rộng.
Ngoài Hải Phòng, còn có
các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình đưa đồng bào các địa phương này
lên khai hoang và kéo dài tới 1974. Nhưng Kiến An (sau
1963 là Hải Phòng) là tỉnh đầu tiên đưa đồng bào lên khai hoang tại Lào Cai
một cách có kế hoạch, có nghị quyết lãnh đạo giữa 2 tỉnh và đã thực hiện thành
công việc đưa hàng vạn đồng bào miền xuôi lên lập nghiệp lập nên nhiều
HTX độc lập và xen ghép trải khắp tỉnh Lào Cai trong suốt 14 năm (1961-1974).
Kiến An (Hải
Phòng) đã phối hợp chặt chẽ với tỉnh Lào Cai đề ra nhiều chính
sách mới nhằm hỗ trợ đồng bào miền xuôi lên sớm định cư, ổn định đời sống, như
cung cấp lương thực theo khẩu 6 tháng đầu mới lên, chính sách hỗ trợ khai hoang
phục hoá, chính sách về khám chữa bệnh, …Đồng bào dân tộc sở tại chung
sức tham gia cuộc vận động, nhường chỗ ngủ ngày đầu, hỗ trợ giúp làm lán, nhường ruộng, nhường
đất thổ cư, thổ canh, chia sẻ kinh nghiệm sống và canh tác… là đòn bẩy tích cực cho cuộc vận
động.
Vừa ổn định chỗ ăn ở, sản xuất cho đồng bào, cấp ủy
Đảng đã chú trọng triển khai việc củng cố chính quyền cơ sở và xây
dựng chi bô Đảng “4 tốt”. Trong quá trình ấy, nhiều cán bô miền xuôi lên
được bổ sung vào đội ngũ cán bộ cơ sở xã khai hoang, nhiều chi bộ Đảng mới được
thành lập, trong đó có nhiều chi bộ đảng viên mới lên và đảng viên là người dân
tộc sinh hoạt ghép, hỗ trợ nhau về kinh nghiệm, năng lực và nắm được thực tiễn. Sự “hợp nguồn” giữa cán bộ
địa phương và cán bộ nơi khác đến trong cơ cấu lãnh đạo cấp ủy và chính quyền,
đoàn thể góp vào bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ.
Liên tục những năm sau đó, nhiều đoàn lao động ưu
tú, trẻ khỏe của Hải Phòng tiếp tục được gửi đến Lào Cai mở rộng sản xuất, phát
triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh trật tự. Ngoài ra, Hải Phòng còn cử
hàng trăm cán bộ khoa học kỹ thuật, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên lên Lào Cai công
tác.
Khi cuộc chiến phá hoại bằng không quân của đế quốc
Mỹ lan rộng ra miền Bắc, phong trào đi khai hoang có lắng xuống, nhưng vẫn có
nhiều hộ tiếp tục lên quê mới Lào Cai và trở thành việc điều tiết nhân lực,
phân bố dân cư bình thường diễn ra theo quy luật chung của cả nước. Năm 1975
đất nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH. Năm 1976, tỉnh Lào Cai
sáp nhập với tỉnh Yên Bái, một phần tỉnh Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng Liên
Sơn và sau chiến tranh biên giới năm 1979, các đợt tăng cường cán bộ lên tham
gia xây dựng pháo đài biên giới, nhiều người ở lại định cư và đưa gia đình lên
tiếp tục xây dựng quê mới tại Lào Cai. Tổng kết lại, từ năm 1961 đến năm 1975,
Lào Cai đã đón nhận 18 vạn đồng bào miền xuôi, một nguồn lực lao động mới đã
lên xây dựng kinh tế và định cư, các huyện Văn Bàn, Bảo Yên thời kỳ này thuộc
tỉnh Yên Bái cũng đón nhận gần 2 vạn
người.
Kính thưa quý vị khách quý và toàn thể bà con:
Do có chủ trương đúng, công tác tư tưởng làm tốt, việc
tổ chức thực hiện với bước đi phù hợp
nên cuộc vận động đã đạt kết quả tốt
đẹp:
Trong những năm 1960 đến 1974, người Hải Phòng lên Lào Cai tập trung chủ yếu ở Tằng Loỏng, Phú Nhuận,
Phố Lu, Sơn Hà, Phong Niên, Xuân Quang, Trì Quang thuộc huyện Bảo Thắng,
Cốc San, Quang Kim thuộc Bát Xát và Bảo Nhai của Bắc Hà. Nhiều địa danh mới với
tên ghép ấm tình miền sơn cước và gợi nhớ về cố hương Kiến An đã ra đời. Đó là:
An Trà (Kiến An-Bản Trà), An Phong (An Lão-Phong Niên), Vĩnh Phong (Vĩnh Bảo-Phong Niên), Tân Phong (Tân Liên-Phong Niên)... ở Bảo Thắng; An
Quang (Kiến An-Quang Kim) ở Bát
Xát...
Đồng bào Hải Phòng lên khai
hoang trên quê mới ở miền núi đã mang theo tinh thần cách mạng xã hội chủ nghĩa
đang triển khai ở quê lên tích cực triển khai ở quê mới Lào Cai. Đồng bào nhanh chóng vượt qua những bỡ ngỡ về phong tục, tập quán, về ngôn ngữ;
những lo ngại về rừng thiêng nước độc, giao thông đi lại khó khăn, thiếu bệnh
viện, trường học và cả những va chạm với dân địa phương mới nảy sinh nhiều vấn
đề phức tạp ban đầu. Được sự động viên giúp đỡ của chính quyền và đồng bào sở tại về chỗ ở, nhân lực, vật lực, đồng bào mới lên đã tích cực khai hoang, phục hoá, năm 1963 đã khai
hoang 1 000 ha ruộng nước, 300 ha ruộng bậc thang. Sau đó, người
khai hoang mạnh dạn đưa tiến bộ kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất lúa nước vùng
châu thổ vào sản xuất thâm canh, tạo ra phong trào mới trong sử dụng phân
chuồng, phân xanh, làm bèo hoa dâu, làm cỏ sục bùn; đào ao nuôi cá; đưa cây
mía, cây ăn quả lên đồi tăng thêm nguồn thu nhập.
Đặc biệt đã dấy lên
phong trào hợp tác hoá đi liền với thủy lợi hoá, hàng trăm mương phai, hồ chứa
nước như công trình thuỷ lợi Gia Phú, Phú Nhuận, Bảo Nhai, Na Quynh, Bản Lợi đã
được xây dựng. Công cụ sản xuất cũng được bổ sung, cải tiến cho phù hợp. Kinh
nghiệm sản xuất mới và kinh nghiệm sản xuất truyền thống đan xen, hỗ trợ đã
thúc đẩy phong trào sản xuất, tạo ra lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất
mới trong nông thôn Lào Cai. Kể cả sau này, khi các HTX dưới xuôi có những
“manh nha” về quản lý mới đã được những người về thăm quê mang lên thử áp dụng Nhiều
cán bộ diện “tăng cường” được điều động lên làm nòng cốt đã về quê đưa gia đình
lên lập nghiệp.
Cùng với phát triển sản
xuất nông - lâm nghiệp, nhiều cơ sở hạ tầng nông thôn từng bước được xây dựng,
là sự phối hợp kỹ thuật, đóng góp công sức chung giữa đồng bào miền xuôi và
đồng bào dân tộc thiểu số. Nhiều tuyến đường mới thay cho lối mòn; các công trình
tập thể như trụ sở, sân kho HTX trở thành nơi hội họp và vui chơi cho cộng
đồng. Các cơ sở chăn nuôi tập thể, chế biến, nghề phụ ra đời làm thay đổi dần
cách nghĩ, cách làm của nông dân tranh thủ lúc nông nhà để có thêm thu nhập. Nhiều
trung tâm xã, các chợ nông thôn ra đời vừa mang dáng dấp chợ quê Bắc Bộ, vừa mang
bản sắc văn hoá các dân tộc làm thay đổi dần tập quán tự cấp tự túc trong nông
thôn miền núi.
Để con em mình tiếp tục
được học do bỏ dở khi theo gia đình đi khai hoang, các HTX khai hoang và xen kẽ
đã có nhiều hình thức tạo giáo viên vỡ lòng dân lập, thực hiện xoá nạn mù chữ
và BTVH. Việc này cũng thu hút nhiều cán bộ và đồng bào dân tộc tham gia. Phong
trào thực hiện nếp sống mới, ăn chín, uống sôi, bỏ tệ cúng bái khi ốm đau, vận
động phụ nữ dân tộc sinh con trong nhà, giảm tốn kém tiền của trong ma chay,
cưới hỏi, thực hiện hoà hợp dân tộc, tôn trọng trong phát huy bản sắc văn
hoá miền xuôi - miền ngược được phát động, thực hiện; bước đầu hình thành và
xây dựng nên quan niệm, ý thức mới trong cuộc sống, góp phần xây dựng đời sống
văn hoá mới. Từ đời sống tâm linh khá đơn giản, thờ thần rừng, sùng kính thủ
lĩnh của người bản địa dần ảnh hưởng bởi những tôn giáo từ người xuôi đưa lên là
Phật giáo và Thiên chúa giáo.
Khối đoàn kết trong
chính quyền các cấp là nòng cốt từ cơ sở bắt đầu từ trong thôn bản, giữa các
dân tộc được thể hiện trên thực tế qua việc làm, trong đời sống sinh hoạt hàng
ngày. Qua các thời kỳ sau, những việc làm cụ thể trong xây dựng và tăng cường
khối đoàn kết đã góp phần củng cố cơ sở chính trị, tạo nếp truyền thống trong
tiềm thức sau này về chính sách cán bộ; bố trí cán bộ người Kinh và người dân
tộc thiểu số, nguồn cán bộ địa phương và cán bộ nơi khác đến trong cơ cấu lãnh
đạo cấp ủy và chính quyền được thể hiện qua các kỳ Đại hội Đảng hoặc bầu cử
HĐND, góp vào bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ.
Thực hiện cuộc vận động
đưa đồng bào miền xuôi lên miền núi cũng là thời kỳ bổ sung nguồn cán bộ cho
Lào Cai. Lực lượng cán bộ mới đã được thử thách qua cuộc kháng chiến chống
Pháp, rất nhiều bộ đội phục viên và cán bộ đương chức từ các xã miền xuôi được
giao nhiệm vụ cùng gia đình, họ mạc và cả việc được tăng cường có thời hạn
nhưng do mến quê mới đã tình nguyện ở lại và trưởng thành. Năm 1964 trong 60 xã có đồng bào khai hoang, cán bộ chủ chốt là người miền xuôi chiếm số lượng đáng kể . Tinh thần cách mạng, ham học hỏi đã tác động tích cực tới đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số đã tăng cường sức chiến đấu của Đảng ngay từ tổ chức cơ sở
Đảng.
Việc bố trí lại dân cư
sau khi đón đồng bào miền xuôi lên phát triển kinh tế đã bổ sung nguồn nhân lực
mới cho lực lượng dân quân tự vệ cả về số lượng và chất lượng. Làm thay đổi cơ
cấu lực lượng dân quân tự vệ như trình độ tác chiến, nữ, tỷ lệ đảng viên, độ
tin cậy vào tinh thần sẵn sàng chiến đấu của các cơ sở do tỷ lệ cán bộ lãnh đạo
là đảng viên, đã qua thử thách tăng.
Khi cuộc vận động khai hoang ngưng do nhiệm vụ và
tình hình cách mạng đã thay đổi, trong ngôi nhà mới tỉnh
Hoàng Liên Sơn (thành lập 1976) và sau
chiến tranh biên giới năm 1979, các đợt tăng cường cán bộ lên tham gia xây dựng
pháo đài biên giới, nhiều người Hải Phòng ở lại định cư và đưa gia
đình lên tiếp tục xây dựng quê mới tại Lào Cai. Phong
trào khai hoang những năm đó đã góp phần làm chuyển biến căn bản mọi
mặt của Lào Cai. Từ đây vùng biên viễn Tây Bắc gắn bó hữu cơ hơn trên mọi
phương diện (quản lý nhà nước, chính trị, kinh tế, văn hoá và tình cảm)
với Hải Phòng, với miền xuôi và cả
đất nước.
Thời bình lo mở mang, khai khẩn đất hoang, thời
chiến bà con Hải Phòng lại động viên con em lên đường nhập ngũ, chiến đấu. Trong đội hình các Tiểu đoàn Hoàng Liên Sơn 1,2 của Lào Cai hành quân vào
chiến đấu tại chiến trường B hồi 1968-1969; trong biên chế bộ đội địa phương, dân
quân tự vệ ngoan cường với cuộc chiến chống lại chiến tranh phá hoại bằng không
quân, biệt kích thời kỳ 1965-1972 (nhảy dù xuống xã Phú Nhuận (Bảo Thắng)
ngày 4/6/1963, Nậm Tha (Văn Bàn)
năm 1964) hay trong cuộc chiến đấu chống lại “chiến tranh phá hoại nhiều mặt”, “bảo vệ biên giới” hồi 1978-1985 có nhiều con em người khai hoang Hải Phòng. Họ đã góp công sức, trí tuệ và cả máu xương, tính mạng trong buổi:
Thủa khai hoang san
đồi, phát rẫy, dãi gió dầm sương, khơi dòng tiến bộ;
Ngày mở trận vượt núi, băng rừng, góp công hiến máu,
giữ vững sơn hà.
Kính thưa:
Ngày nay, trong dư địa
chí Lào Cai, ngoài những tên làng, tên bản, tên xã theo từ Hán Việt, thuần Việt
hay gốc tiếng Dáy, tiếng Tầy còn có những địa danh mới gắn kết quê cũ và quê
mới của đồng bào khai hoang có ý nghĩa giáo dục truyền thống. Những địa danh
mới đó đã đi vào tâm tư tình cảm của mấy thế hệ, được ghi vào các tác phẩm thơ,
văn… có địa danh đã trở nên nổi tiếng, đáng trân trọng.
Trong những năm chống chiến tranh phá hoại bằng
không quân của Đế quốc Mỹ, Lào Cai thành hậu phương của cả nước. Nhiều gia đình
người khai hoang đã giúp đỡ cả tinh thần và vật chất cho bà con họ mạc ở quê.
Cũng như thế sau này, trong những năm 1978-1984 bà con dưới quê lại cưu mang,
đùm bọc người khai hoang, đặc biệt những ngày tháng 2/1979.
Trải qua những bước
thăng trầm lịch sử, nhiều gia đình gốc Hải Phòng đã 2 – 3 đời
sinh cơ lập nghiệp tại Lào Cai; nhiều người hay con em của họ trưởng thành
được giao trọng trách trong các cấp chính quyền, trong các cơ quan, đơn vị;
trong LLVT; nhiều doanh nhân, văn nghệ sĩ người Hải Phòng đã có đóng góp vào sự
phát triển của Lào Cai.
Thế hệ hôm nay tự hào và
được kế thừa bản lĩnh người Lào Cai được tạo dựng nên từ “hợp nguồn” xuôi -
ngược trong vị thế mới.
Như vậy, hơn 10 năm, 18 vạn
đồng bào miền xuôi
(trong đó người Hải Phòng có 4 vạn) lên quê mới thành cư dân Lào Cai nhưng luôn gắn bó với quê cũ cả về tâm
tư, tình làng xóm, dòng họm truyền thống lao động, yêu độc lập tự do, niềm tin
tưởng tuyệt đối vào chủ trương của Đảng và của lãnh đạo 2 tỉnh; nó đã góp phần làm thay
đổi căn bản bộ mặt cả cố hương và tân quê, đặc biệt trong việc giữa vững bình
yên ở 2 đầu: miền núi Tây Bắc và duyên hải Đông Bắc nước ta.
Kính thưa:
Nhìn lại
chặng đường 55 năm qua có thể thấy những bài học kinh nghiệm mà tựu trung lại, có thể khái quát như sau:
- Tiếp nối truyền thống di dân từ miền xuôi lên miền
núi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam để tăng cường sứ mạnh toàn diện
cho biên ải.
- Phù hợp với Bối cảnh lịch sử và quan điểm của Đảng
về miền núi những năm 1960 trong hoàn cảnh cả nước tiến hành đồng thời hai cuộc
Cách mạng.
- Việc vận động đồng bào lên khai hoang miền núi
những năm 1960 và chính sách đối với người đi của tỉnh Kiến An (sau là Hải
Phòng) có nhiều sáng tạo.
- Việc tiếp nhận, sắp xếp dân cư đối với người dân
khai hoang của các địa phương thuộc Lào Cai đã được chú trọng toàn diện, sát
hợp.
- Được sự chỉ đạo đúng, sát của lãnh đạo hai tỉnh cả
trên phương diện nhận thức tư tưởng, bước đi thích hợp, thống nhất, phối hợp
hành động tốt.
Nó góp vào kinh nghiệm chung của bà con, lãnh đạo cấp ủy, chính quyền cơ sở có đông đồng bào Hải Phòng trong việc thực hiện các cuộc vận động, góp phần phấn đấu sớm đưa Lào Cai ra khỏi diện tỉnh nghèo,
quyết tâm xây dựng quê hương Lào Cai-Hải Phòng giàu mạnh, xứng đáng là nơi “phên dậu
quốc gia” vùng Tây Bắc và Đông Bắc.
Thực tế đã minh chứng
cho lời nói của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng “đi khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới là tô thắm cho non sông, làm
giầu cho đất nước” và càng thấy rõ chủ trương khai
hoang những năm 60 thế kỉ XX là đúng. Nó góp phần làm đổi thay diện mạo cả quê
mới lẫn quê gốc bởi đôi nơi đều cố gắng:
Nơi cố hương gìn giữ nét
xưa, bồi đắp cho thêm đẹp miền duyên hải;
Chốn tân quê phát huy
truyền thống, dựng xây để càng bền đất biên cương.
Kính thưa:
Những bài học kinh nghiệm bổ ích của cuộc vận động
sẽ là sức mạnh nội lực ở từng cơ sở, địa phương và kết quả cuộc vận động còn
góp kinh nghiệm, ý nghĩa lịch sử to lớn với
sự phát triển KT-VH-XH-ANQP của 2 tỉnh, của cả nước!
Quá trình người Hải
Phòng lên Lào Cai những năm 1961-1974 là quá trình đồng bào Hải Phòng cũng
như đồng bào các tỉnh khác vùng Châu thổ sông Hồng đã can đảm, bất chấp gian khó, hiểm
hóc, băng rừng, vượt núi, gối đất, nằm sương, mở lối, khai hoang tạo ruộng, tạo
vườn, lập nên làng xóm. Trong quá trình đó đồng bào đã đổ biết bao mồ hôi, tiền
của và cả máu xương để vun bồi, tô điểm, giữ vững mảnh đất nơi “phên dậu quốc
gia” này. Đây
là cuộc rời quê cha đất tổ của người dân Hải Phòng vì sự
nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa miền núi do nhà nước chỉ đạo, có kế hoạch và
tên làng được định từ quê gốc, khi họ chưa đặt chân đến vùng đất mới.
Đến nay, tỉnh Lào Cai có khoảng 4 vạn người gốc Hải
Phòng đang sinh sống, làm việc tại hầu hết các huyện, các ngành của Lào Cai; nhiều
người trở thành cán bộ Đảng, chính quyền, sĩ quan trong LLVT, doanh nhân thành
đạt tại Lào Cai.
Nhìn lại quãng đường đã qua, bà con Hải Phòng trên
quê hương Lào Cai tự hào về hành trình hơn 55 năm sát cánh, đồng lòng trong sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển Lào Cai. Cùng với bà con các dân tộc địa
phương, người Hải Phòng thực hiện nghiêm túc đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, chủ trương, nhiệm vụ của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa
phương. Sự đóng góp về tài năng, trí tuệ
và nghị lực của người Hải Phòng trên quê hương mới được lãnh đạo các cấp ở Lào Cai cũng như Hải Phòng ghi nhận. Công lao của bà con, ngoài những người được nhà nước, chính quyền các cấp ghi nhận bởi
những Huân, Huy chương, Kỷ niệm chương, Bằng, Giấy khen còn hàng vạn người, đủ mọi tầng lớp, mọi nghề nghiệp, trình độ, những người bình dân “chân
lấm tay bùn” đã âm thầm cống hiến đời mình cho tân quê, cho
mối quan hệ đôi quê và cho đất nước.
Trong Lịch sử Đảng bộ Lào Cai cũng như trong các bài
viết, phát biểu của lãnh đạo Lào Cai, Hải Phòng
đã ghi nhận và đánh giá cao những đóng góp của người Hải Phòng trên quê
hương mới Lào Cai, làm sáng danh người Hải Phòng, góp phần tô thắm thêm tình
đoàn kết giữa người dân Hải Phòng và Lao Cai. Đồng bào các dân tộc Lào Cai đã
đùm bọc người dân Hải Phòng lên Lào Cai lập nghiệp những ngày đầu, tạo điều
kiện cho người dân Hải Phòng được đóng góp tích cực vào sự đảm bảo an ninh trật tự, xây dựng phát triển
kinh tế, văn hóa của Lào Cai.
Trong quá trình ấy đã nêu bật vai trò, ảnh hưởng của người khai hoang:
- Góp phần cùng nhân dân các dân tộc Lào Cai đẩy
mạnh phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội và giữ vững ANTT trong những ngày “nước
sôi lửa bỏng”.
- Mối quan hệ họ mạc, gia đình của từng Doanh nhân,
người dân Hải Phòng đã đóng góp nhất định trong việc hình thành, phát triển
hành lang kinh tế, tam giác tăng trưởng Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng của Nhà nước.
Hiện nay, việc xây dựng và phát triển
hai hành lang và vành đai kinh tế Việt - Trung, trong đó có Hành lang kinh tế
Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng thì việc hợp tác Hải Phòng - Lào Cai càng có vai
trò quan trọng, gắn với việc xây dựng và phát triển hành lang kinh tế đó. Như thế sự gắn bó giữa người khai hoang và người
ở quê lại càng mật thiết hơn, phù hợp với lợi ích của từng gia đình, lợi ích 2
tỉnh, lợi ích quốc gia và khu vực.
Kính thưa:
Đến nay đã 55 năm (1961-2016) và có 3-4 thế hệ gốc
đất Cảng được sinh ra và lớn lên tại “nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt”.
Những người con dù sinh ra ở Hải Phòng hay bố mẹ rời quê lên Lào Cai mới sinh
nhưng đều vẫn nhận là “người Hải Phòng”, luôn nhớ về quê hương, nhận ra nhau mỗi
khi gặp mặt, dù chưa quen biết trước. Chính vì thế mà bà con tự tập hợp nhau
lại báo cáo cấp có thẩm quyền và được tỉnh cho phép thành lập “Hội Đồng hương”. Những năm trước hoạt
động lẻ tẻ, không thống nhất, không có mối liên hệ thường xuyên.
Nhận thức rõ điều đó, Đại hội lần thứ Nhất được
tiến hành vào ngày 24/6/2007, Đại hội đại biểu lần thứ Hai Nhiệm kỳ 2013-2018
họp ngày 03/3/2013, bầu ra BCH để lãnh đạo hoạt động của Hội trong toàn tỉnh.
Từ khi có Hội, nhất là sau Đại hội lần thứ Hai hoạt
động “Đồng hương” đã lớn mạnh cả chiều sâu và chiều rộng. Hội đồng hương Hải
Phòng tại tỉnh Lào Cai thực sự là cầu nối người Hải Phòng tại Lào Cai với thành
phố Cảng quê hương. Sự ra đời của Hội đồng hương Hải Phòng đáp ứng được lòng
mong mỏi của các thế hệ người Hải Phòng vẫn từng ngày gắn bó với Lào Cai. Qua
Hội đồng hương Hải Phòng, người Hải Phòng thêm đoàn kết với nhau, tiếp tục sát
cánh cùng bà con Lào Cai và Hải Phòng góp phần vào quá trình xây dựng và phát
triển hai quê hương ngày càng giàu đẹp.
Việc tổ chức các đoàn về thăm quê, đón các đoàn ở
quê lên; khen thưởng các cháu học sinh giỏi, chúc thọ các cụ, thăm hỏi khi ốm
đau, chia sẻ lúc hoạn nạn…là những nét nổi bật mà Hội Đồng hương Hải Phòng là
một trong những Hội Đồng hương hoạt động thường xuyên, thiết thực có hiệu quả.
Kính thưa các đ/c lãnh đạo, các quý vị đại biểu và
toàn thể bà con!
Cách đây 15 năm, việc Kỷ niệm 40 năm người Hải Phòng đi khai hoang tại Lào Cai được Sở
Nông nghiệp phát triển Nông thôn thành Phố Hải Phòng tổ chức vào năm 2001, mặc
dù quy mô khiêm tốn nhưng nó như là một sự mở đầu.
Đáp ứng
nguyện vọng của bà con, cách đây 5 năm Lễ
Kỷ niệm 50 năm người Hải Phòng đi xây dựng kinh tế- văn hóa-quốc phòng tại Lào
Cai đã được tổ chức long trọng ngày 18/3/2012 tại Hội trường này khi đó là
Hội trường lớn của tỉnh. Đó là kết quả của sự quan tâm, chỉ đạo, ủng hộ chí
tình, có hiệu quả của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Lào Cai và thành phố Hải Phòng.
5 năm qua, Lào Cai có nhiều chuyển biến sâu sắc, và
người Hải Phòng tự hào là có góp sức, góp công. Đó cũng là 5 năm mà Hội đồng
hương Hải Phòng phát triển sâu rộng, có nhiều hoạt động có ý nghĩa, thiết thực như
giao lưu giữa các địa phương, giao lưu với quê hương…
Hôm nay chúng ta tụ họp Kỷ niệm 55 năm người Hải Phòng đi xây dựng kinh tế- văn hóa-quốc phòng
tại Lào Cai đúng vào ngày kỷ niệm lần thứ 61 năm giải phóng quê hương đất
Cảng nên niềm vui tăng lên gấp bội!
Trong quá trình tiến tới buổi gặp mặt hôm nay,
Thường trực Hội đã đề nghị và được Thành ủy, UBND thành phố Hải Phòng chấp
thuận:
1. Khen thưởng của UBND thành phố cho
22 tập thể Hội cơ sở và 73 cá nhân Hội viên có thành tích xuất sắc trong 55 năm
qua;
2. Tặng quà cho các đối tượng chính
sách là Hội viên trong dịp kỷ niệm;
3. Cấp
kinh phí để Tổng Công ty Cổ phần XNK và XD Bạch Đằng (Văn phòng
ở: 208D Trần Nguyên Hãn, Q. Lê Chân, Tp. Hải Phòng) xây tại nơi mà cách đây 55
năm đã đón nhận đoàn khai hoang đầu tiên (trong đó cán bộ lãnh đạo, kỹ thuật, chuyên
môn) từ Kiến An lên. Cụ thể:
- Một hạng mục của Trường Tiểu học số 2 xã Sơn Hà,
huyện Bảo Thắng, đặt tại thôn An Hồng;
- Nhà Sinh hoạt cộng đồng xã Sơn Hải, huyện Bảo
Thắng tại thôn An Tiến.
Tại các công trình trên sẽ chọn vị trí trang trọng
để gắn BIA TRUYỀN THỐNG lược ghi quá trình và kết quả 55 năm Thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 (Khóa III) về phát triển kinh tế miền núi của đồng bào Hải
Phòng trên quê hương Lào Cai.
Những phần thưởng, phần quà và công trình ân nghĩa
của quê hương đất mẹ rất được bà con Hải Phong trên Lào Cai trân quý và chúng
tôi coi đó như những nén tâm nhang tưởng niệm và tri ân lớp cha ông chúng tôi
từ quê cha đất tổ đặt những bước chân, bổ những nhát cuốc đầu tiên trên quê mới
Lào Cai.
Kính thưa: Các quí vị đại biểu và khách quí và bà
con !
Cháu con nay sống trong
cảnh nhà cao cửa rộng không thể không ơn lớp cha anh đã vượt gian nguy những
ngày “màn trời chiếu đất” để phục hóa, khai hoang!. Có như vậy đất
nước mới trường tồn, quê hương mới phát triển vững bền Lớp người tiền tiêu ấy, nay
còn lại không nhiều. Đồng thời chúng ta thành kính tin rằng những người đã ra
đi trên quê mới sẽ phù hộ cho chúng ta và phù hộ cho những đ/c lãnh đạo đã quan
tâm, có những việc làm thiết thực, ý nghĩa tri ân lớp tiền tiêu hanh thông mọi
mặt trong chặng đường tiếp theo.
Chúng ta ghi
nhớ và tri ân những cán bộ, đảng viên, những nông dân, thanh niên hừng hực
khí thế khai hoang ngày đó, người có công, có thành tích được thưởng Huân, Huy
Chương, được các cấp khen thưởng và cả những người vì lý do nào đó chưa được
khen. Chúng ta và mai sau không được phép lãng quên lớp người vỡ hoang, mở đất
và cả những người đến sau góp phần xây dựng, chấn hưng thôn xóm. Truyền thống
và hiện tại, cũ và mới chan hòa, đoàn kết xây dựng quê hương tươi sáng, mạnh
giầu. Đúng là:
Lớp đi Trước khai hoang, tìm nơi Địa lợi, trải lắm
gian nan, bền chí dựng Tương lai, Công Đức
lưu truyền vĩnh viễn,
Người tiếp Nay chấn hưng, chớp buổi Thiên thời, qua nhiều khốn khó, quyết tâm xây Hạnh phúc, thôn xóm phát triển huy hoàng.
Hiện nay, như chúng ta đều biết giữa Hải Phòng và
Lao Cai đạt được những kết quả bước đầu trong việc hợp tác phát triển kinh tế,
đặc biệt là tuyến kinh tế hai hành lang, một vành đai. Bà con Hải Phòng tại Lào
Cai là vừa là người thụ hưởng thành quả đó đồng thời còn là những thành viên
tích cực thực hiện cơ sở cơ chế hợp tác của hai địa phương, tuân thủ pháp luật, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau và giúp
đỡ bà con các dân tộc Lào Cai. Đó là cách thiết thực Hội chúng ta giáo dục hội
viên thực hiện nghiêm túc chỉ thị của lãnh đạo thành phố Hải Phòng và tỉnh Lào
Cai.
Kính thưa các đ/c lãnh đạo, các quý vị đại biểu và
toàn thể bà con!
Tại buổi lễ long trọng này, một lần nữa cho phép tôi
thay mặt Ban Tổ chức, thay mặt BCH Hội Đồng hương Hải Phòng, thay mặt 4 vạn bà
con người Hải Phòng đang sinh sống. làm việc, công tác, học tập tại quê hương
Lào Cai xin gửi lời biết ơn chân
thành đến lãnh Cấp ủy, HĐND, UBND, MTTQ các ban ngành của tỉnh, của các huyện,
xã đã quan tâm, giúp đỡ, động viên đồng bào Hải Phòng suốt 55 năm qua cũng như
tạo điều kiện cho buổi Lễ long trọng này.
Chúng tôi cũng xin cảm ơn lãnh đạo và bà con quê
hương Hải phòng đã không quên đồng bào khai hoang, đã và sẽ giúp đỡ, động viên
về tinh thần và vật chất với đồng bào đi khai hoang từ ngày đầu đến tận hôm nay
Kỷ niệm 55 năm đồng bào Hải Phòng đi xây dựng Kinh
tế-Văn hóa-Xã hội tại Lào Cai, tôi đề nghị các đ/c lãnh đạo các cấp và bà con
tập trung trí tuệ, sức lực, huy động mọi nguồn để dần biến việc kỷ niệm ngày
này thực sự là ngày Hội của người Hải Phòng trên đất Lào Cai.
Qua buổi gặp mặt này, tin tưởng rằng Hội đồng hương
Hải Phòng, người Hải Phòng tiếp tục sát cánh cùng bà con Lào Cai và Hải Phòng
góp phần vào quá trình xây dựng và phát triển hai quê hương ngày càng giàu đẹp,
văn minh, hạnh phúc.
Cuối cùng, xin kính
chúc các đ/c lãnh đạo, các quý vị đại biểu và toàn thể bà con mạnh khỏe,
hạnh phúc và thành đạt!
Xin chân thành cám ơn !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét