Thứ Ba, 12 tháng 5, 2015

Giải phóng Hải Phòng

Người dân tổ chức chào đón bộ đội Việt Minh (ảnh ST)
Ai cũng biết: miền Bắc được hưởng hòa bình từ năm 1954 sau Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954) và theo Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam (thường gọi là Hiệp định Genève 1954, ký ngày 20/7). Nhưng Hải Phòng "đi trước về sau" mãi gần một năm sau mới sạch bóng quân xâm lược.
Theo Hiệp định, Vành đai Hải Phòng …. 300 ngày (Haipbong perimeter....... 300 Days) tính  từ ngày bắt đầu có hiệu lực của hiệp định hiện thời (from the date of the entry into force of the present Agreement) tức là tính từ lúc 24 giờ (giờ Geneva), ngày 22 tháng 7 năm 1954 (at 2400 hours (Geneva time) on 22 July 1954).
Thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, hội nghị quân sự giữa đại biểu Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và đại biểu bộ tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương họp tại Trung Giã quy định khu vực tập kết 300 ngày ở vùng duyên hải Bắc Bộ bao gồm Hải Phòng, Kiến An, Hồng Quảng và hai huyện Kinh Môn, Kim Thành thuộc tỉnh Hải Dương cho quân đội Pháp. Lịch rút quân của chúng cũng được quy định rõ từng ngày.
Hải Phòng đã từng là cái đầu cầu đổ bộ của quân đội thực dân Pháp xâm lược lên miền Bắc, giờ đây lại là cái túi đựng mọi thứ sắc lính của đoàn quân chiến bại. Các bộ tư lệnh không quân, hải quân, lục quân Bắc Việt, các loại đơn vị, những tên trùm sỏ ngụy quyền ở Miền Bắc, phản động tay sai, các loại hội tề, tầm gửi sống bám vào đội quân viễn chinh...đều dồn về đây. Cùng với tứ "rác rưởi" có sẵn của chủ nghĩa thực dân như lưu manh, gái điếm, lừa đảo...Lính Pháp, lính ngụy, súng ống, xe cộ chật ních đường phố Hải Phòng. Đội quân bại trận vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu, mang theo sự tủi nhục, chán đời, sống gấp, chúng dẫm đạp, đánh lẫn nhau để cướp bóc, phá phách thành phố, vơ vét trong những ngày chờ xuống tàu, cuốn gói ra đi.
Thời kỳ quân dân Hải Phòng, Kiến An gặp nhiều khó khăn, thành phố Hải Phòng đặt dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của Chính phủ trung ương theo Sắc lệnh số 221/SL ngày 22/02/1955.
Thực dân Pháp vì thất bại mà buộc phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhưng với bản chất phản động, ngoan cố, chúng câu kết với đế quốc Mỹ, tìm mọi cách làm hạn chế thắng lợi của ta, muốn giữ đầu cầu từ biển vào Hà Nội và Bắc Bộ, dù buộc phải cuốn cờ vào trong vĩ tuyến 17. Không đạt được tham vọng thì đối phương phá, đạp đổ.
Để đối phó, một mặt ta dựa vao pháp lí quốc tế, đấu tranh buộc phải thi hành hiệp định. Mặt khác, ta phải tự lực tìm mọi cách để bảo vệ nhân dân, bảo vệ thành phố, bảo vệ tài sản của ta. Đồng thời phải dùng các cơ sở, nhân mối tại chỗ làm việc kiểm kê các loại tài sản, tài liệu, để đối chiếu khi giao, nhận, nếu thiếu thì đòi giao đủ.
Cùng lúc, ta huy động hơn trăm người đến trụ sở Ủy ban Quốc tế giám sát thi hành hiệp định (A: International Control Commission, ICC; P: Commission Internationale pour la Surveillance et le Contrôle, CISC gồm Ấn Độ, Ba Lan và Canada, với Ấn Độ làm chủ tịch) đưa những bản kiến nghị tố giác phía Pháp vi phạm hiệp định; yêu cầu Ủy ban cử đại diện đến  những nơi đó can thiệp.
Cuộc đấu tranh thắng lợi, Ủy ban Liên hiệp đình chiến, trong đó có đại biểu của ta, mũ sao, quân phục chỉnh  tề, cùng với một tổ của Ủy ban Quốc tế đến xem xét hiện trường, lập biên bản quyết định phía Pháp phải để máy móc dụng cụ đã tháo dỡ ở lại và thả những người bị bắt.
Đồng thời, cán bộ, bộ đội đi sát những người bị dụ dỗ, vạch trần âm mưu thủ đoạn của địch, vận động hàng chục vạn người bỏ các trại di cư. Công nhân đoàn kết, đấu tranh chống tháo dỡ di chuyển máy móc. Nông dân vận động được hai vạn binh lính ngụy bỏ hàng ngũ địch. Học sinh, trí thức sôi nổi tham gia đấu tranh bảo vệ học đường, công trình vǎn hóa.
Theo thời giờ đã định, các đội hành chính và trật tự của ta được sự chuẩn bị và giúp đỡ của công nhân, viên chức và nhân dân, các cán bộ ta tin tưởng và nghiêm cẩn làm việc, khiến phía địch phải có thái độ tương ứng, lần lượt bàn giao các vị trí, công sở cho ta. Thấy thiếu thứ này, thứ khác, ta yêu cầu họ bàn giao đầy đủ. Họ ngạc nhiên trước sự nắm chắc tình hình của cán bộ ta.
Ngày 28/4/1955, Trung đoàn 42 tiếp quản các huyện Kim Thành, Kinh Môn và một phần huyện An Dương.
Ngày 08/5/1955 tiếp quản huyện Hải An.
Ngày 10/5/1955, Trung đoàn 52 (thuộc 320) cùng Tiểu đoàn 204 bộ đội địa phương tiếp quản thị xã Kiến An và huyện An Lão.
Ngày 12/5/1955, Trung đoàn 42 tiếp quản toàn huyện An Dương.
Ngày 13/5/1955, Trung đoàn 42, con đẻ của thành phố ra đi kháng chiến nay chiến thắng về chỉnh tề trên mười xe ôtô, theo đường 5 tiến vào Hải Phòng. Đến Cầu Quay, phía Pháp cử một đoàn năm xe bọc thép gắn trọng liên ra đón. Viên sĩ quan Pháp có hai lính hộ vệ, mời đoàn ta vào tiếp quản vị trí đầu tiên của khu nội thành. Nửa tiểu đội của ta trang nghiêm bước tới thay gác cho lính Pháp rút.
Ngày 14, 15/5/1955 tiếp quản Kiến Thụy, Đồ Sơn.
Ngày 16/5/1955 ta tiếp quản Cát Hải, Cát Bà từ đây trên miền Bắc không còn bóng dáng binh lính Pháp.
 Về sau ngày 13/5 được lấy là ngày “Kỷ niệm giải phóng Hải Phòng”. Trong khi đó, chiều 13-5, một cảnh huống trái ngược diễn ra với đám quân xâm lược: Chiếc tàu Đrin Boocđô chở một tiểu đội Âu - Phi cuối cùng rời bến cảng Hải Phòng. Ngay chiều hôm ấy, từ Ga Hải Phòng, các đồng chí công nhân gắn ảnh Bác Hồ, treo cờ hoa lên đầu tàu hỏa, chở Đoàn đại diện anh chị em công nhân và các cở sở kháng chiến quanh khu ga, ra chào mừng Cảng Hải Phòng. Tiếng còi tàu nổi lên vang vọng cùng lúc với tiếng còi các nhà máy chào mừng ngày thành phố, nhà ga, bến cảng vĩnh viễn thuộc về ta.
Ngày 14-5, thành phố tổ chức lễ chào mừng thắng lợi. Đại diện các cơ quan Khu Tả Ngạn, thành phố Hải Phòng, tỉnh Kiến An, đại diện các đơn vị bộ đội tiếp quản thành phố tới dự. Các đại đoàn, trung đoàn đều cử một đại đội dự lễ duyệt binh. Các chiến sĩ đi thành đội ngũ, tay cầm súng, chân bước đều theo nhịp kèn hùng tráng, trước sự cổ vũ nồng nhiệt của đồng bào.
Mười chín ngày sau đó, tại nhà hát lớn của thành phố, đại biểu nhân dân và chiến sĩ Hải Phòng họp mặt đón mừng Bác Hồ về thăm. Đây là lần thứ 2 Người đặt chân lên đất Cảng (lần đầu sau chuyến Người thăm nước Pháp trở về, tới Hải Phòng ngày 20-11-1946) nói chuyện với đồng bào, chiến sĩ tại vườn hoa Sông Lấp. Hôm nay, Người khen: “Vừa rồi công việc tiếp quản tốt là do bộ đội, cán bộ làm đúng chính sách, giữ vững kỉ luật, do nhân dân ta, đặc biệt là công nhân hăng hái đấu tranh” và căn dặn; “Nhiệm vụ tất cả mọi người chúng ta hiện nay là đấu tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ trong cả nước. Đó là cuộc đấu tranh phức tạp, gian khổ và lâu dài, bời vì đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng đang âm mưu phá hoại hòa bình, phá hoại thống nhất”
Sau hòa bình, ngày 26/9/1955, huyện Hải An của Kiến An sáp nhập vào thành phố Hải Phòng và cấp dưới thành phố là quận, khu phố hay xã. Theo Hiến pháp 1959, Hải Phòng là thành phố (bên dưới có khu phố, quận rồi khối dân phố, xã) là một trong 26 tỉnh ở Bắc bộ. Khi cấp hành chính Liên khu kể từ ngày 01/12/1958 được bãi bỏ bởi Sắc lệnh số 92/SL ngày 24/11/1958 thì Kiến An là tỉnh trực thuộc trung ương (cấp dưới là huyện, xã).
Sau khi hoàn thành khôi phục kinh tế sau chiến tranh, ngày 27/10/1962, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá II đã có Nghị quyết về việc hợp nhất Hải Phòng- Kiến An thành thành phố Hải Phòng.
Hiện nay, Hải Phòng là 1 trong 5 thành phố trực thuộc trung ương và là đô thị loại 1 trung tâm cấp quốc gia, gồm 7 quận nội thành (Đồ Sơn, Dương Kinh, Hồng Bàng, Ngô Quyền, Lê Chân, Kiến An), 6 huyện ngoại thành (Thủy Nguyên, An Dương, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, An Lão, Kiến Thụy) và 2 huyện đảo (Cát Hải, Bạch Long Vỹ) gồm 228 đơn vị cấp xã (70 phường, 10 thị trấn và 148 xã). Hải Phòng có: DT 1.507,57 km2; DS: 1.837.302 người; Mđộ: 1.218,781 người/ km2.
Thành phố nằm trong “Tam giác tăng trưởng Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh” và trong “Hành lang kinh tế: Hải Phòng-Hà Nội-Lào Cai-Côn Minh” hiện đang phấn đấu đến năm 2020, muộn nhất là 2025 trở thành đô thị loại đặc biệt. Khi đó, dự kiến Hải Phòng sẽ tiến hành chia tách các huyện cũ để thành lập thêm 5 quận mới: Bến Rừng, Bắc Sông Cấm, Tây Bắc, An Dương và Tràng Cát - Cát Hải. Nâng tổng số quận lên thành 12 quận, mở rộng vùng trung tâm.
 - Ngày 12/5/2015, Lương Đức Mến-


Thứ Hai, 11 tháng 5, 2015

Quá trình hình thành ĐỊA DANH HẢI PHÒNG

Hải Phòng xưa (ST)
Tuy vùng đất cổ, có nền văn minh sớm, ở trình độ cao nhưng địa danh “Hải Phòng” và việc lập ra đơn vị hành chính độc lập mang tên này lại khá trẻ. Nhân Kỷ niệm 60 năm ngày giải phóng quê hương (13/5/1955-13/5/2015) ôn lại chút lịch sử và ghi lại đây sự hiểu biết của mình.

1. Quá trình hình thành đơn vị hành chính độc lập.

Quá trình hình thành cương vực Hải Phòng là quá trình vươn ra biển cả, đắp đê sông, đê biển, thau chua rửa mặn.
Từ trở về trước đất Hải Phòng nay là một phần huyện Vĩnh Lại (tức Vĩnh Bảo 永保 thuộc phủ Hạ Hồng), huyện Tiên Minh 先明 (phủ Nam Sách), các huyện Giáp Sơn 岬山, Đông Triều 東潮, An Lão 安老, Nghi Dương 宜陽, Kim Thành 金城, Thuỷ Đường 水溏, An Dương 安陽 (phủ Kinh Môn) thuộc thừa tuyên 承宣 (rồi xứ , trấn tỉnh ) Hải Dương 海陽.
Vào đời Nguyễn (阮朝, 1802-1945), sau khi ký Hòa ước Giáp Tuất (甲戌條約, 1874)tại bến cảng bên cửa sông Cấm của tỉnh Hải Dương 海陽 mang tên Ninh Hải , nhà Nguyễn và Pháp lập nên một cơ quan thuế vụ chung, quản lý việc thương mại ở vùng cảng này gọi là Hải Dương thương chính quan phòng. Tiếp theo, Bùi Viện được sự phê chuẩn của vua Tự Đức, đã thực hiện việc xây dựng một căn cứ phòng ngự bờ biển ở liền kế bên, gọi là Nha Hải phòng sứ 海防衙使.
Sau Hoà ước Giáp Thân (甲申條約, 1884), khi đã mới bình định xong Việt Nam, Pháp cắt các huyện ven biển của Hải Dương lân cận cảng Ninh Hải là: An Dương, Nghi Dương, An Lão (thuộc phủ Kiến Thuỵ) và một phần huyện Thuỷ Đường (Thuỷ Nguyên) lập Nha Hải Phòng 海防衙, ngày 11/9/1887 đổi là tỉnh Hải Phòng.
Đến 19/7/1888 Pháp ép Đồng Khánh nhượng Hải Phòng để xây dựng thành phố bằng Sắc lệnh do Tổng thống Pháp Sadi Carnot kí. Đến ngày 31/01/1898, toàn quyền Đông Dương tách Tf Hải Phòng ra khỏi tỉnh Hải Phòng, chuyển tỉnh lị về Phủ Liễn. Ngày 05/8/1902 tỉnh Hải Phòng đổi thành tỉnh Phù Liễn sau đó ngày 17/2/1906 thành tỉnh Kiến An 建安. Từ đó, thành phố Hải Phòng là thành phố thuộc địa (nhượng địa) do Pháp lập Toà Đốc lý trực tiếp cai trị, Kiến An là tỉnh Bảo hộ (protectorat) vẫn duy trì bộ máy vua quan phong kiến cai trị thuộc xứ Bắc Kỳ (Tonkin, theo Hòa ước Quý Mùi hay Hiệp ước Harmand, 25/8/1883) bên cạnh Tòa Công sứ do người Pháp nắm quyền.
Từ sau 8/1945 và sau 1955 địa danh Hải Phòng, Kiến An không có gì thay đổi chỉ có điều chỉnh về địa giới một số huyện giữa các tỉnh, thành Hải Phòng, Kiến An, Quảng Yên và Hải Dương
Thành phố Hải Phòng ngày nay được Quốc Hội Nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (nay là Quốc Hội Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) Quyết định thành lập vào ngày 27/10/1962, trên cơ sở hợp nhất thành phố Hải Phòng cũ và tỉnh Kiến An.
2. Có nhiều giả thiết về nguồn gốc địa danh Hải Phòng:
- Là tên gọi rút ngắn trong cụm từ Hải tần phòng thủ 海嬪防守, chức (?) của Đông Triều công chúa, lĩnh ấn Trấn Đông đại tướng quân, thống lĩnh đạo quân Nam Hải là Lê Chân (?-43, con của Lê Đạo và Trần Thị Châu) đầu thế kỷ I.
- Là tên gọi rút ngắn từ tên gọi của một cơ quan đời Tự Đức (嗣德, 1848-1883) trên đất Hải Dương lập năm 1870: Nha thương chính 商政 ( còn gọi là Sở Đoan) trực thuộc Đốc bộ đường tỉnh Hải Dương nên tên đầy đủ là Hải Dương thương chính nha 海陽 貿易商館. Con dấu của nha này ghi: "Hải Dương thương chính quan phòng" tức dấu của Nha thương chính Hải Dương. Nha này đặt ra nhiều địa phương ven biển hoặc có đường biên giới giáp nước ngoài với chức năng là cơ quan bảo vệ, canh phòng chủ quyền đất nước. Tên gọi này sau được Jean Dupuis (1828-1912, là một nhà thám hiểm và thương nhân người Pháp) khi khám phá vùng sông Hồng cho mục đích thương mại năm 1872 ghi lại và trên lược đồ của Pháp năm 1874 cũng đã thấy ghi lại hai chữ Hải Phòng.
- Bắt nguồn từ Ty sở nha Hải Phòng hoặc đồn Hải Phòng 海防兵力 (có chức năng là cơ quan bảo vệ, canh phòng chủ quyền đất nước) do Cử nhân Bùi Viện (, 1839 - 1878) lập năm năm 1871 gần cảng Ninh Hải khi ông giúp Lê Tuấn (黎峻, ?- 1884), Tham tri Bộ Lễ 禮部參知 ra Bắc dẹp loạn. Việc này có thể do lúc đầu người Pháp chỉ được đóng quân ở đồn Hải Phòng mà không được đóng quân ở đồn Ninh Hải. Vì vậy họ quen dùng tên Hải Phòng, tên gọi này phát âm dễ hơn tên Ninh Hải (đối với người Pháp).
- Do Phạm Phú Thứ (范富庶, 1821–1882) đặt năm 1877 khi ông Tiến sĩ cập đệ 進士科 (Khóa thi Quý Mão, 1843) này làm tổng đốc Hải Yên 海安總督 (còn gọi là Hải An, gồm Hải Dương 海陽 và Quảng Yên 安廣, 1874-1878), kiêm sung Tổng lý thương chính Đại thần 総理貿易商大臣. Địa danh này có nghĩa là "Phòng vệ bờ biên " đất nước.

Lương Đức Mến (STBS), ngày 12//5/2015