Tuy là vùng
đất cổ, có nền văn minh sớm, ở trình độ cao nhưng địa danh “Hải Phòng” lại khá
trẻ.
Thời Trung đại
vùng này thuộc lộ 路, trấn 鎭Hải Đông, sau là Đông Đạo 東道, Nam Sách thượng 南策上, thừa tuyên Nam
Sách 南策承宣rồi thừa tuyên 承宣 (xứ 処, trấn 鎭, đạo道, tỉnh 省) Hải Dương 海陽.
Sau khi bình định xong Việt Nam, Pháp cắt các huyện ven biển của Hải Dương lân cận cảng Ninh Hải
là: An Dương, Nghi Dương, An Lão (thuộc phủ Kiến Thuỵ) và một phần huyện
Thuỷ Đường (Thuỷ Nguyên) lập Nha Hải Phòng 海防衙, ngày
11/9/1887 đổi là tỉnh Hải Phòng 海防省.
1. Một số giả thuyết về địa danh “Hải Phòng”:
- Là tên gọi
rút ngắn trong cụm từ Hải tần phòng thủ 海嬪防守, chức (?) của nữ tướng Lê Chân (黎真, 20 – 43, một nữ tướng của Hai Bà Trưng) đầu thế kỷ
I. Nhưng trong suốt 19 thế kỷ sau đó không thấy xuất lộ một chút gì về bóng
dáng của địa danh này trong thư tịch cổ !.
- Là tên gọi
rút ngắn từ tên gọi của một cơ quan đời Tự Đức (嗣德, trị
vì 1847 – 1883) trên đất Hải Dương: Hải Dương thương chính quan phòng海陽商政关防 (hay Hải Dương
quan phòng, Hải Dương phòng khẩn quan phòng) là tên được khắc trong con dấu
của nha phòng khẩn ở Hải Dương. Chú ý rằng, triều đình nhà Nguyễn đã cho đặt
nha Hải phòng 海防衙ở nhiều địa phương ven biển hoặc có đường biên giới giáp nước
ngoài với chức năng là cơ quan bảo vệ, canh phòng chủ quyền đất nước, đâu riêng
gì vùng “đất Cảng” nay!.
- Bắt nguồn từ
Ty sở nha Hải Phòng hoặc đồn Hải Phòng do Bùi Viện (裴院, 1839 - 1878) lập năm
1871 đời Tự Đức khi ông ra Bắc dẹp loạn dư đảng của Thái Bình Thiên Quốc (太平天國, 1851 – 1864)
từ Đại Thanh (大清, 1636–1912) tràn sang
cướp phá nước ta. Trong mục 11 của bản Hoà ước Giáp Thân 甲申條約do đại diện Nhà nước Cộng hoà Pháp và triều đình Huế ký
ngày 15/3/1874 có đoạn ghi: “Chính phủ An Nam cam kết mở cửa thông thương các cảng
Thị Nại ở tỉnh Bình Định, Ninh Hải (Hải
Phòng) ở tỉnh Hải Dương, thành phố Hà Nội và cho đi qua sông Nhị Hà từ biển
cho tới Vân Nam”. Bến cảng trên sông Cấm 禁江mang tên “Ninh Hải” nhưng với người
Pháp[1] tên “Hải
Phòng” dễ phát âm dễ hơn nên địa danh “Ninh Hải” tuy được dùng chính thức trong
giấy tờ, sử sách của ta từ trước lại bị tên “Hải Phòng” loại hẳn.
Song chưa rõ
ai là người đặt ra thuật ngữ “rút gọn” đó để chỉ địa danh vùng này.
Mới đây, khi đọc
cuốn ĐỊA DANH HỌC VIỆT NAM của Lê Trung Hòa do NXBVHTT xuất bản năm 2013 thấy tại
trang 189 có chép: “Tên Hải Phòng được Phạm Phú Thứ đặt năm 1877, ở đó có cơ quan Hải phòng sứ, bảo
vệ cửa biển”.
2. Tiểu sử Phạm Phú Thứ :
(Theo Bách khoa toàn thư mở và các tư liệu
khác)
Phạm Phú Thứ (范富恕/範富庶, 1821–1882)[2] có tổ
năm đời của ông vốn họ Đoàn, gốc Bắc Thành. Cha ông là Phạm Phú Sung, mẹ ông là
Phạm Thị Cẩm (người làng Trừng Giang, và là con gái một ông đồ). Nhà nghèo, mẹ
mất sớm, nhưng nhờ thông minh, chăm chỉ, và từng được Tùng Thiện Vương從善王Nguyễn Phúc Miên Thẩm 阮福绵审 (1819-1870,
nổi tiếng thần đồng, giỏi thơ phú) dạy dỗ, nên ông Thứ sớm có tiếng là người
học giỏi,
Học hành và đỗ
đạt: Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), Phạm Phú Thứ dự thi Hương, đỗ Giải
nguyên khi mới 21 tuổi và được vua Thiệu Trị đổi tên là Phú Thứ. Năm sau (Quý Mão, 1843), dự thi Hội, ông cũng đỗ
đầu (Hội nguyên). Khi vào thi Đình, ông đỗ luôn Tiến sĩ cập đệ.
Quan trường: Buổi đầu
(1844), ông được bổ làm Biên tu. Năm sau (1845), thăng ông làm Tri phủ Lạng
Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Giang), rồi
thăng làm Thị Độc. Một thời gian sau, vì có tang cha, ông xin nghỉ chức.
Năm Tự Đức 2
(1849), ông được chuyển qua Viện Tập hiền làm chức Khởi cư chú (thư ký ghi lời nói và hành động của vua),
rồi sang tòa Kinh diên (phòng giảng sách
cho vua).
Năm 1850, thấy
nhà vua ham vui chơi, lơ là việc triều chính, ông mạnh dạn dâng sớ can gián,
nên bị cách chức và giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế). Xét án, triều đình khép ông vào tội đồ (đày đi xa); song nhà vua cho rằng đó chỉ là “lời nói khí quá khích,
không nở bỏ, nhưng răn về (tính) nóng bậy”, nên ông chỉ bị đày làm “thừa nông dịch”
(lính trạm chuyên chạy về việc canh nông)
ở trạm Thừa Nông (Huế).
Năm 1852, ông
được khôi phục hàm Biên tu (hàm lúc sơ bổ).
Năm 1854, cử ông làm Tri phủ Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Tại đây, ông tổ chức
và vận động dân chúng lập được hơn năm mươi kho nghĩa thương để phòng khi chẩn
tế cho dân. Với việc làm đó, ông được cử giữ chức Viên ngoại lang ở bộ Lễ.
Năm 1855, ông
được điều sang công tác quân sự để giải quyết cuộc bạo động của người Thượng ở
Đá Vách (thuộc tỉnh Quảng Ngãi). Sau
khi dẹp yên, ông được thăng chức Án sát sứ ở hai tỉnh là Thanh Hóa và Hà Nội.
Năm 1858, ông
được chuyển về làm việc ở Nội các tại Huế.
Năm 1859, ông
xin về quê để dưỡng bệnh và cải táng mộ cha. Khi trở lại triều, ông dâng sớ xin
đắp đê Cu Nhí, đào sông Ái Nghĩa, đồng thời xây dựng công sự bố phòng và luyện
tập quân sự ở tỉnh nhà (Quảng Nam).
Năm 1860, từ Nội
các, ông được thăng chức Thị lang bộ Lại, rồi thăng làm Thự Tham tri của bộ
này.
Đầu năm 1863,
sau khi vua Tự Đức xét trong mấy điều khoản trong Hòa ước Nhâm Tuất còn có chỗ
chưa thỏa, liền sung Phạm Phú Thứ làm Khâm sai vào ngay Gia Định, hội với Phan
Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp (hay Thiếp) để đàm phán với quan soái Pháp và quan đại
thần nước Y Pha Nho (Tây Ban Nha).
Không hoàn thành nhiệm vụ, ông phải bị giáng một cấp. Tháng 5 (âm lịch) năm
này, ông được cử làm Phó sứ, cùng với Chánh sứ Phan Thanh Giản và Bồi sứ Ngụy
Khắc Đản, sang Pháp và Tây Ban Nha với nhiệm vụ xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông
Nam Kỳ.
Tháng 3 năm
1864, sứ bộ về đến Huế. Sau đó, ngoài bản tường trình cốt để thuyết phục vua Tự
Đức mau “cải cách việc học tập và phát triển công nghiệp” [8], Phạm Phú Thứ còn
dâng lên vua hai tác phẩm do ông làm trong chuyến đi, đó là Tây hành nhật ký và
Tây Phù thi thảo. Vua xem cảm động, có làm một bài thơ để ghi lại việc này. Được
tin cậy, nhà vua thăng ông làm Tham tri bộ Lại.
Năm 1865,
thăng ông chức Thự Thượng thư bộ Hộ, sung Cơ mật viện đại thần. Ở chức việc
này, ông đã mật tâu xin đặt 4 Tuyên phủ sứ ở Quảng Trị, Bình Định, Nghệ An và
Hưng Hóa; đồng thời xin đặt “trường giao dịch chợ búa, sửa thuế thương chính, lập
thổ tù” ở các nơi ấy để làm “mạnh vững nơi biên phòng, nhưng việc rút cục không
thành”.
Năm 1866, quan
soái Pháp phái tàu đến cửa Thuận An (Huế)
đưa thư đòi “quản luôn ba tỉnh là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên”, vì ở đây “bọn
trộm cướp thường qua lại”. Nhà vua liền sai Phạm Phú Thứ và Phan Huy Vịnh đến “xin
giữ giao ước cũ lâu dài” .
Năm 1867, Phan
Thanh Giản mất, triều đình cử Phạm Phú Thứ làm người điều đình với Pháp. Song
thực dân Pháp không hài lòng về cách xử sự cứng rắn của ông, còn triều đình Huế
thì không hài lòng vì việc thương lượng cứ đỗ vỡ. Cuối cùng, ông bị Ngự sử đàn
hặc, và bị gọi về kinh “hậu cứu”.
Năm 1873, vì
phạm lỗi, ông lại bị giáng làm Thị lang, rồi khai phục chức Tham Tri.
Năm 1874, triều
đình cho mở nhà thương chính ở Bắc Kỳ. Nhà vua cho ông “là người am hiểu, và có
tài cán lão luyện”, nên tháng 10 (âm lịch) năm đó, đổi ông làm Thự[3] Tổng đốc
Hải Yên (còn gọi là Hải An, gồm Hải Dương
và Quảng Yên, tức vùng Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh nay),
kiêm sung Tổng lý thương chánh Đại thần. Đến nơi, gặp lúc đê huyện Văn Giang (nay thuộc Hưng Yên) vỡ, nước lũ tràn cả
hai phủ là Bình Giang và Ninh Giang thuộc Hải Dương. Thấy dân đói khổ, ông lập
tức xin trích năm vạn phương gạo ở kho Hưng Yên để phát chẩn. Đồng thời, lại
phái thuộc hạ đem những người dân còn khỏe mạnh đến Đông Triều, Nam Sách...khẩn
hoang, cày cấy kiếm sống.
Năm 1876, chuẩn
cho Phạm Phú Thứ được thực thụ chức Tổng đốc[4] Hải An[5]. Để yên dân, ông
xin đặt trường mua gạo ở chợ An Biên (thuộc
huyện An Dương, Hải Phòng) và Đồ Sơn (thuộc
huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh); đồng phái Thương biện là Lương Văn Tiến
(anh em họ ngoại với Phú Thứ) đi hiểu
dụ lưu dân, tạo công ăn việc làm cho họ, để họ thôi “càn rỡ, ngang ngược”.
Ngoài ra, ông còn cho khai rộng sông ở phủ Bình Giang, mở Nha Thương Chánh và
trường học chữ Pháp ở Hải Dương vào năm 1878, v.v....
Năm 1878,
thăng ông làm Thự Hiệp biện Đại học sĩ, song vẫn lĩnh chức vụ cũ. Cũng trong năm
này, Khâm phái ngự sử là Dương Hoàn tâu lên rằng: “Lương Văn Tiến (lúc này đang làm Giám đốc việc tuần phòng
ngoài biển) cậy thế chở gạo ra ngoại quốc”...Vì vậy, Phạm Phú Thứ phải về
Huế, để chữa bệnh và đợi án. Năm 1880, khi bản án dâng lên, ông bị giáng lám
Quang lộc tự khanh, lĩnh chức Tham tri bộ Binh. Nhân có bệnh, ông xin về quê.
Tạ thế: Năm Tự Đức thứ
35 (Nhâm Ngọ, 1882), Phạm Phú Thứ mất
tại quê nhà “giữa những ngày u ám nhất của vận mệnh chế độ phong kiến nhà Nguyễn”,
thọ 61 tuổi.
Nghe tỉnh thần
tâu lên, vua Tự Đức thương tiếc ban dụ, trong đó có đoạn: “Phú Thứ kinh lịch
nhiều khó nhọc, đi đông sang Tây, dẫu yếu đuối cũng vâng mệnh không dám từ chối.
Về việc trông coi Thương chính ở Hải Dương, khi tới nơi công việc đều có manh mối,
sau này nên lấy đó noi theo. Những lưu dân, gian phỉ chứa ác ở Quảng Yên, Thứ tới
kinh lý cũng được yên. Rồi mở đồn điền ở Nam Sách, thực là lo xa chu đáo, đó là
công cán ngày thường rực rỡ đáng nêu. Gia ơn cho truy phục nguyên hàm Thự Hiệp
biện Đại học sĩ và chuẩn cho thực thụ, cũng sắc cho địa phương tới tế một tuần.
Tác phẩm của
Phạm Phú Thứ toàn bằng chữ Hán. Ngoài ra, qua sách đi sứ qua phương
Tây, ông đã phiên âm nhiều địa danh, không rập khuôn theo cách gọi của người
Tàu mà đặt riêng dùng cả chữ Nôm chứ không hạn chế chỉ dùng chữ Nho.
Hiện nay, lăng mộ cụ
Phạm Phú Thứ ở tại quê nhà tại làng Đông Bàn thôn Nam Hà 1 xã Điện Trung thị xã
Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, đã được chính quyền địa phương cùng con cháu dòng tộc
Phạm Phú tôn tạo lại, và đã được xếp hạng di tích Lịch sử Văn hóa cấp tỉnh.
Tên ông cũng
đã được dùng để đặt tên cho bốn ngôi trường, đó là: Trường Tiểu học Phạm Phú Thứ,
tại xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; Trường trung học phổ thông
Phạm Phú Thứ tại Gò Nổi (Điện Bàn, Quảng
Nam), trường Trung học phổ thông Phạm Phú Thứ tại xã Hòa Sơn (Hòa Vang,
thành phố Đà Nẵng), và trường trung học phổ thông Phạm Phú Thứ ở đường Gia Phú,
Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh. Ở thị trấn Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn và quận Tân
Bình, thành phố Hồ Chí Minh, Quận Hải Châu Thành phố Đà Nẵng, Thành phố Hải
Phòng, Thành phố Bà Rịa tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và nhiều tỉnh thành khác cũng có
con đường mang tên ông.
-Lương Đức Mến, 7/2019-
[1] “Hải Phòng” vốn là tên một đồn binh ở
bến Ninh Hải bên bờ sông Cấm, thuộc làng
Cấm (Gia Viên), làng Vẻn (An Biên) huyện An Dương.
[2] Trước tên là Phạm Hào khi đỗ Tiến sĩ,
được vua Thiệu Trị đổi tên là Phú Thứ
富恕có
nghĩa “rộng lượng” sau được Tự Đức đổi sang chữ "thứ" khác Phú Thứ 富庶 với nghĩa
“đông đúc.
[4] Tổng đốc 總督 là một chức quan của chế độ phong kiến
trao cho viên quan đứng đầu một vùng hành chính gồm nhiều tỉnh thành. Tiền thân
của chức Tổng đốc là các chức Tổng trấn và Hiệp trấn vào thời vua Gia Long, còn
trước đó từ triều nhà Hậu Lê là các chức quan Trấn thủ hay Lưu trấn.
[5] Việc đề xuất địa danh “Hải Phòng” chắc
thực hiện ở thời kỳ này!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét