Khi mẫu thân
ngày một cao tuổi, dù muốn hay không anh em tôi vẫn phải nghĩ đến việc lo “hậu
sự” cho bà. Cũng vì thế mà tôi hay được hầu chuyện các cụ cao niên trong xóm, ở
quê với nỗi lo: khi chết con cháu nó đưa đi “thui”.
Một số lão
nông già, ít chữ, ít giao tiếp với xã hội gọi “hỏa táng” là “thui” và cho rằng
như vậy mình sẽ bị “nóng”, người thân, con cháu còn lại thì “thương người
thân”
chả dám “đốt”! Điều này do người nọ rỉ tai người kia và “chưa ai chết được hỏa
táng rồi lại trở về” mà tả được cảm giác đó nên chả ngã ngũ gì. Nhưng chả lẽ
không có lời giải về khoa học cũng như tâm linh?
1.
TỨ TÁNG:
Trước khi tìm
hiểu về vấn đề này, thiết nghĩ cũng nên ôn lại một số khái niệm liên quan. Những khái niệm này bản thân đã tìm hiểu,
có chép lại, lý giải thêm và từng đưa lên trang nhà. Nay không cần nhắc lại.
Ở đây chỉ nhấn
thêm vài điểm: Táng là thực hiện việc lưu giữ thi hài hoặc hài cốt, tro cốt của
người chết; Phần mộ cá nhân là nơi táng thi hài, hài cốt của người chết; Mai
táng là thực hiện việc lưu giữ thi hài hoặc hài cốt, tro cốt của người
chết ở một địa điểm dưới mặt đất; Chôn cất một lần là hình thức mai
táng thi hài vĩnh viễn; Hung táng là hình thức mai táng thi
hài trong một khoảng thời gian nhất định sau đó sẽ được cải táng; Cải
táng là việc chuyển xương cốt từ mộ hung táng sang hình thức táng khác;
Nghĩa
trang là nơi táng người chết tập trung theo các hình thức táng khác
nhau và được quản lý, xây dựng theo quy hoạch.
Mặt khác, việc
xử lý thi xác sau chết thường được tiến hành dưới 4 hình thức gọi là Tứ táng (H: 四喪 , A: The four manners
of treatment with the dead body, P: Les
quatre manières de traiter un cadavre), gồm:
- Thổ táng 土喪: chôn xác
người chết xuống đất, thường thấy ở Việt Nam, Trung Hoa và một số vùng bởi niềm
tin: “Chúng sanh tất tử, tử tất quy thổ, thử chi vị quỷ. Cốt nhục tễ vu hạ, âm
vi dã thổ, kỳ khí phát dương vu thượng vi chiêu minh” (眾生必死,死必歸土,此之謂鬼. 骨肉斃於下,陰為野土;其氣發揚於上,為昭明), nghĩa là: con người ai cũng phải chết, chết tất trở về đất, xương thịt
xuống thấp tan biến vào trong đất, còn khí dương bay lên cao trong sáng rực rỡ.
Hình thức này vốn phổ biến ở ta và ngày một chiếm nhiều đất hơn.
- Hỏa táng 火喪: (hay được gọi không trọn nghĩa là hỏa thiêu
hay thiêu) là hình thức an táng người chết bằng cách đem xác người chết
thiêu ở nhiệt độ cao cho cháy sạch phần hữu cơ rồi thu lấy tro hay các xương bỏ
vào hũ nhỏ đặt lên bàn thờ hay cho vào tiểu sành chôn xuống đất như Cát táng. Tục
lệ nầy thường thấy ở Ấn Độ và ở những nước có đông đảo tín đồ Phật giáo.
- Thủy táng 水喪: đem xác
người chết bỏ giữa biển khơi, để cho các
loài cá ăn thịt, nên cũng gọi cách nầy là Ngư táng (chôn vào bụng cá). Tục lệ nầy thường thấy ở lực lượng Hải quân và
những bộ lạc sống trên các hòn đảo nhỏ giữa Thái Bình Dương.
- Điểu táng 鳥喪: Xác người
chết được chặt thành nhiều mảnh nhỏ, đem đặt xác trên đỉnh núi, treo trên ngọn cây để các loài chim
như: kền kền, quạ,... ăn thịt. Tục lệ nầy ở xứ
Tây Tạng, vì xứ nầy toàn là núi đá, lại bị tuyết phủ quanh năm nên ít có cây cối
để làm củi đốt. Hơn nữa Phật giáo tại đây cho rằng sau khi chết, xác người chỉ
là một cái vỏ rỗng không, có thể cho thú vật làm thức ăn.
- Ngoài ra, một số nơi có tục lệ đem xác người chết bỏ vào rừng
sâu để cho các loài thú dữ đến ăn thịt gọi là lâm táng 林喪. Ở một số
nền văn hóa khác, người ta lại cố gắng làm chậm quá trình phân hủy của xác trước
tang lễ (thậm chí có thể làm chậm quá
trình phân hủy sau khi chôn cất), ướp xác hoặc tạo các mô mi. Một cách mai
táng mới là “mai táng sinh thái”. Nó bao gồm sự làm đông xác ở nhiệt độ rất
thấp, sau đó tán thành bột bằng cơ chế rung, làm khô ở nhiệt độ lạnh, loại bỏ
kim loại, sau cùng là thiêu hủy thành phần bột còn lại, chỉ chiếm khoảng 30% khối
lượng cơ thể. Gần đây còn có ý tưởng về “vũ trụ táng”: dùng tên lửa đưa một
phần tro cốt vào không gian.
Bên cạnh đó, nhiều
người đã hiến toàn bộ hoặc một phần xác cho khoa học (nổi tiếng nhất là Einstein) để phục vụ nghiên
cứu và giảng dạy môn giải phẫu. Tại Việt Nam, từ năm 1996, phong trào hiến xác
cho khoa học đã bắt đầu phát triển với sự phát động của Giáo sư Nguyễn Quang
Quyền ở trường Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
2.
TÌM HIỂU VỀ HỎA
TÁNG
Đối với những
người đương đại trên đất Việt thì hỏa táng là “mới” nhưng thực ra, lịch sử ghi nhận rằng trên thế giới và ngay cả ở Đại Việt thì việc
này có từ lâu đời rồi.
Đối với dân tộc Việt (người Kinh)
thì việc hỏa táng xuất hiện sớm nhất khoảng đầu Công nguyên, cùng niên đại với việc du nhập của đạo Phật. Những năm 1960 khi chúng tôi từ Hải
Phòng lên Lào Cai vẫn thấy những khu rừng mà dấu vết cây cháy còn rõ, dân bản địa
nói đó là nơi thiêu một ai đó. Ngay xóm tôi ở từ 2/1964 thì đầu xóm là “rừng hủi”,
tức cánh rừng “già” nhất khu, là nơi từng “đốt” xác một người trong vùng; cuối
xóm là “lọ lu” là ngôi mộ che bán mái được lợp bằng thân cây nứa chẻ đôi mà người Dao bản địa nói trong đó chứa tro cốt.
Hiện nay, theo một
số tài liệu thì tàn dư của tục hỏa táng (bằng
củi) có thể tìm thấy trong dân tộc Thái ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An và Lai
Châu và tục hỏa táng còn khá thịnh hành ở người Thái đen.
Do hỏa thiêu thực hiện bằng cách “đốt” thi xác ở nhiệt độ cao nên theo sự
tiến bộ của công nghệ mà việc hỏa táng từ nhiệt được cung cấp bằng củi, tiến
lên bằng điện, rồi gas tự nhiên, dầu, khí propane,…
Ngày nay, việc hỏa thiêu được tiến hành ban đầu tại Cơ sở hỏa táng. Đó là cơ sở vật chất bao gồm lò hỏa táng và các
công trình phụ trợ khác (khu văn phòng,
khu kỹ thuật, khu lưu trữ tro cốt, nhà tang lễ, các công trình hạ tầng kỹ thuật).
Trong đó, bộ phận cốt lõi ban đầu là Lò
hỏa táng, nơi tiến hành trực tiếp việc thiêu xác.
Ở Việt Nam hiện nay, các lò hỏa táng (buồng
đốt) đều được nhập từ nước ngoài, với công nghệ cao, tự động, vận hành
nhanh chóng và chính xác.
Trong quá trình thiêu, nhiệt độ trong lò có thể lên tới hơn 1.000 độ C và sức
nóng này đủ để thiêu hết toàn bộ phần hữu cơ của thi xác và vật dụng đi kèm. Mức
nhiệt độ này được đặt và khởi động từ trước và việc đưa xác người đã chết vào cần
nhanh chóng để tránh bị mất nhiệt. Tùy theo yêu cầu sau hỏa thiêu, gia đình muốn
nhận lại Tro – Cốt mảnh xương hay Cốt nguyên xương mà người ta đặt quy trình và
mức nhiệt thiêu khác nhau. Thực ra, tro cốt người quá cố không bao giờ “còn
nguyên xương” bởi nhiệt cao mà còn lại ít tùy thuộc vào cơ địa của người mất. Nên chớ mắc “cò
mồi” mà bị lừa!
Đúng ra, Hoả táng không cần đến quan
tài như cách chôn truyền thống ở ta. Nhưng để đảm bảo tính nghiêm trang của
tang ma, tôn trọng đối với người đã mất cũng như đảm bảo vệ sinh với người sống
nên người chết vẫn được Khâm liệm, Nhập quan bình thường. Tất nhiên phải là
quan tài bằng gỗ dễ cháy, chả cần gỗ tốt, quý, như Dổi, Vàng tâm, Pơ mu,…Chiếc
quan tài đó sẽ được đốt cháy trước tiên trong quá trình hoả thiêu.
Chú ý rằng Hoả táng là thiêu cháy hết toàn bộ thi xác nên trước
khi thực hiện nó thì phải được kết luận rõ nguyên nhân gây tử vong và về mặt
pháp lý phải có Giấy Khai tử của cấp có thẩm quyền (UBND cấp xã). Đồng thời, các
thiết bị cơ khí y khoa như van tim, máy hỗ trợ nhịp tim, tai nghe điện tử,… hay
đồ trang sức như nhẫn, vòng, khuyên tai,… và các loại tương tự khác phải loại bỏ trước
khi thiêu vì chúng có thể phát nổ do gặp nhiệt độ cao, gây hỏng hóc các thiết bị
hỏa táng và gây nguy hiểm cho các kỹ thuật viên.
Hiện nay, ở Hoa kỳ, người ta còn
hỏa táng không dùng lửa gọi là “hỏa táng xanh”. Khi đó, người ta dùng nước,
kali hydroxit và nhiệt độ làm phân rã thi thể người quá cố bên trong một buồng
thép kín. Việc này không chỉ thân thiện với môi trường mà còn cần ít thời gian
hơn.
Quy trình hỏa
thiêu: quan tài có chứa thi xác đưa vào buồng
đốt thì quan tài đó sẽ bị thiêu hoàn tòan trước. Sau đó, da và tóc bị cháy, các
cơ bắp teo lại và cháy thành than, các mô mềm bốc hơi, xương nhanh chóng bị vôi
hóa. Các khí giải phóng ra trong quá trình này được thải ra ngoài qua một hệ thống
ống xả nên bên ngoài không thấy mùi gì, có chăng sẽ chỉ có thấy mùi gas đốt.
Nếu gia đình hiếu chủ cần nhận lại tro (những
hạt mịn) thì có khi sẽ hỏa táng hai lần hoặc các kỹ thuật viên dùng một cây
gậy dài để làm vụn hay các mảnh xương được tán thành bột bằng máy chuyên dụng.
Khi thi xác chỉ còn lại tro các kỹ thuật viên sẽ thu hết lại cho vào một khay
và để nguội.
Tất nhiên một lượng nhỏ xương có thể vẫn còn trong buồng đốt và bị trộn lẫn
với các vụn của các xác thiêu sau này. Hoặc trong số tro cốt đó có thể lẫn cả vật
vô cơ chưa hóa lỏng như đinh vít, bản lề,… của quan tài, răng giả, răng vàng,
vít phẫu thuật, nẹp xương, chân tay giả, đồ trang sức…của người quá cố hoặc đồ tùy táng không cháy được như: kim loại, sành sứ,…. Tất cả nhừng “dị vật”
đó sẽ được loại bỏ ra khỏi tro xác nhờ nam châm hoặc tìm nhặt của kỹ thuật viên.
Tro, mảnh
xương hay xương sẽ được kỹ thuật viên xếp, đặt cẩn trọng vào lọ, tiểu giống như
khi bốc mộ,…bọc gói cẩn thận rồi giao cho gia đình.
3.
HẬU HỎA THIÊU:
Tro cốt sau hỏa thiêu sẽ được thu gom đựng trong lọ hay đặt trong tiểu. Lọ
hay tiểu sành này có thể được lưu trong kho Đài hỏa táng hoặc trao cho gia đình
hiếu chủ về mai táng, hay đặt tại Chùa, Nhà thờ, hoặc thờ tại gia trang.
Chú ý nếu hạ thổ mà khi thiêu lấy xương đựng trong tiểu thì mai táng như
thông thường còn nếu lấy tro đựng trong lọ thì phải đặt đứng lọ tro cốt trong tiểu chứ không đặt nằm ngang. Những việc làm
này sẽ giúp cho phần tro cốt được yên lành, con cháu mới không gặp những điều
ngang trái, tai họa.
Nhớ lại, cổ nhân cho rằng: phần tro cốt còn lại chỉ là biểu tượng của người
qua đời, là người thân mà ta thương yêu còn chính “người” đó đã chết, phải về với
cõi âm nên không nên đem tro cốt về nhà thờ cúng. Bởi khi đó ngôi nhà thêm nặng
âm khí, thiếu dương khí, chưa nói đến việc lọ đựng tro cốt có thoát khí ra
ngoài khiến người trong nhà rất dễ bị nhiễm bệnh.
Với gia đình Phật tử, gửi tro cốt người thân lên chùa, sẽ siêng đến chùa, sẽ
có cơ hội gần Phật pháp, có cơ hội phát tâm tu tập, làm lành lánh dữ. Mặt khác
khi tro cốt người thân đặt trên chùa sẽ thường xuyên được hưởng hương khói, tụng
kinh nên sẽ lành hợn.
4.
TÂM LINH TRONG
VIỆC HỎA TÁNG:
Theo quan điểm của cổ nhân thì con
người có hai phần hợp thành Thể phách (H: 體魄, A: The body and spirit, P: Le corps et l'esprit) tức là thể xác và
tinh thần hay phần “thân” và phần “tâm”. Thân (H: 身體, A: body, P: corps) là kết hợp của tứ đại (Thổ,
Thủy, Phong, Hỏa), khi con người chết thì đất, nước, gió, lửa đều tan ra trở
về với cát bụi còn Tâm, tức Linh hồn (H: 靈魂 , A: The soul, P: L'âme) là cái phần vô hình của con người,
nó rời bỏ thể xác khi con người đã chết thì theo nghiệp lực thọ sinh và thành
vong linh (H: 亡靈, A: Soul of dead person, P: L'âme du mort), cái còn lại người trần
nhìn thấy chỉ là thi xác hay thi thể (H: 屍體, A: Dead body, P: Cadavre).
Ngay các tôn giáo cũng có nhận thức tương tự: Thiên Chúa giáo cho rằng
“thân xác là cát bụi phải trở về cát bụi”, Phật giáo quan niệm “thân xác là
nhân duyên, thần thức mượn xác nhập vào làm con người”.
Do vậy, khi con người “chết” đi, phần hồn, thần thức đã rời khỏi phần xác,
đã được giải thoát nên việc “hỏa thiêu” là chỉ đốt cái xác, khác hoàn toàn hình
thức “tra tấn” dưới địa phủ; linh hồn người đã khuất không bị đốt cháy nên họ không
phải phải chịu sự đau đớn.
Thực tế đã minh chứng rằng: có những vấn đề không có nhưng khi tự ám ảnh
thái quá thì sẽ trở thành sự thật nên cứ nghĩ “thiêu là nóng” thì sẽ lây lan ra
nhiều người là “nóng” thật! Và trớ trêu thay, những “phán” này hay “nhập” vào
những người “yêu bóng vía”, lâu dần thành ám thị, nguy hiểm!
Như vậy, cái mà người ta gọi là “sức
nóng” chỉ là ẩn dụ, là sự “mặc cảm” của người
sắp mất, vừa mất và thân nhân “yếu vía”. Do đó, dù là thiêu (hỏa táng) hay chôn (địa táng) thì thân xác của người chết cũng đã mất đi mọi cảm giác,
không còn biết nóng lạnh, đau đớn là gì. Tất cả chỉ là do người sống nghĩ ra !.
Hơn nữa, khi chết nếu xác đã thiêu thì người chết không thể mượn xác thân của
mình để hiện ra nữa nên chẳng còn “ma”, hoặc không còn lưu luyến nhân gian, quyến
luyến cái thân xác cũ nên sớm đầu thai sang một kiếp khác!
Cũng vì vậy vong linh của người đã mất đều không bị ảnh hưởng đến việc siêu
thoát, tái sinh và việc để lại phúc đức cho con cháu.
Mặt khác, như
nhiều lần đã nghiên cứu đều khẳng định: cát táng không phải tục nguyên gốc của
người Việt và tục này chỉ thịnh hành ở Bắc bộ. Đồng thời nó luôn đè nặng con
cháu một nỗi no: thịt đã tiêu hết chưa, hay xương thịt, thậm chí cả ván đã bị mối
xong rồi,…Lại rất mất vệ sinh! Trong khi hỏa táng hay “đào sâu chôn chặt một lần”
tránh được tâm lý đó!
5.
VĨ THANH:
Hiện nay,
dương gian thì đất chật người đông, âm phần thì mồ mả chen chúc, …là thực tế
nhãn tiền. Đặc biệt nghĩa địa tự phát, không có quy hoạch làm ảnh hưởng xấu đến
cảnh quan kiến trúc, lãng phí tài nguyên đất, không đảm bảo vệ sinh môi trường.
Những vùng, gia đình còn “nệ cổ” thì việc cải táng luôn ám ảnh tâm lý, gây mất
vệ sinh,…không phù hợp với cuộc sống văn minh, hiện đại…
Như trên đã
phân tích thì việc “hỏa thiêu” chỉ là thiêu cái “xác” không hồn và khi đó linh
hồn người chết đã thoát ra, bay đi nên không tháy có cảm giác “nóng”. Việc con
cháu chôn hay thiêu xác đều có ý nghĩa như nhau; tro, xương hay thi xác được địa táng hay hỏa táng cũng đều là trả thân xác người quá cố về cho đất, nước, lửa, gió. Hiện nay, theo xu hướng chung và để hạn chế lo
lắng khi chuẩn bị cát táng, để bảo vệ môi trường,… thì đúng thiêu sẽ có ý nghĩa
hơn. Đồng thời di cốt là tro hay xương cũng không đưa về nhà ở (kể cả Từ đường) thờ phụng mà cần thổ
táng hết hay đưa lên Chùa hoặc Nhà thờ lưu gửi.
Chúng ta ai nấy đều tôn trọng, kính quý và thương nhớ tiền nhân. Sau khi bố
mẹ, ông bà,…qua đời, thực hiện nghi thức nào, ra sao là tùy gia cảnh, lệ tục
dòng tọc, địa phương,… nhưng cốt yếu ở chính cái tâm của mình. Nếu làm tốt, thuận
cả nhiều đường, nhiều người đều là cách chia sẻ, giúp đỡ tốt cho những cuộc ra
đi của người mất và để cuộc đời người còn sống được ấm lòng, hanh thông mọi nhẽ.
Quyết định ra
sao, nhất là ở những gia đình đông anh em, ở nơi “chín người mười làng” không
phải quyền của một người! “Bụng toàn gia cứ vững là yên”.
-Lương Đức Mến, ngày mưa dịp
20/10/2020-