Thứ Hai, 11 tháng 5, 2015

Quá trình hình thành ĐỊA DANH HẢI PHÒNG

Hải Phòng xưa (ST)
Tuy vùng đất cổ, có nền văn minh sớm, ở trình độ cao nhưng địa danh “Hải Phòng” và việc lập ra đơn vị hành chính độc lập mang tên này lại khá trẻ. Nhân Kỷ niệm 60 năm ngày giải phóng quê hương (13/5/1955-13/5/2015) ôn lại chút lịch sử và ghi lại đây sự hiểu biết của mình.

1. Quá trình hình thành đơn vị hành chính độc lập.

Quá trình hình thành cương vực Hải Phòng là quá trình vươn ra biển cả, đắp đê sông, đê biển, thau chua rửa mặn.
Từ trở về trước đất Hải Phòng nay là một phần huyện Vĩnh Lại (tức Vĩnh Bảo 永保 thuộc phủ Hạ Hồng), huyện Tiên Minh 先明 (phủ Nam Sách), các huyện Giáp Sơn 岬山, Đông Triều 東潮, An Lão 安老, Nghi Dương 宜陽, Kim Thành 金城, Thuỷ Đường 水溏, An Dương 安陽 (phủ Kinh Môn) thuộc thừa tuyên 承宣 (rồi xứ , trấn tỉnh ) Hải Dương 海陽.
Vào đời Nguyễn (阮朝, 1802-1945), sau khi ký Hòa ước Giáp Tuất (甲戌條約, 1874)tại bến cảng bên cửa sông Cấm của tỉnh Hải Dương 海陽 mang tên Ninh Hải , nhà Nguyễn và Pháp lập nên một cơ quan thuế vụ chung, quản lý việc thương mại ở vùng cảng này gọi là Hải Dương thương chính quan phòng. Tiếp theo, Bùi Viện được sự phê chuẩn của vua Tự Đức, đã thực hiện việc xây dựng một căn cứ phòng ngự bờ biển ở liền kế bên, gọi là Nha Hải phòng sứ 海防衙使.
Sau Hoà ước Giáp Thân (甲申條約, 1884), khi đã mới bình định xong Việt Nam, Pháp cắt các huyện ven biển của Hải Dương lân cận cảng Ninh Hải là: An Dương, Nghi Dương, An Lão (thuộc phủ Kiến Thuỵ) và một phần huyện Thuỷ Đường (Thuỷ Nguyên) lập Nha Hải Phòng 海防衙, ngày 11/9/1887 đổi là tỉnh Hải Phòng.
Đến 19/7/1888 Pháp ép Đồng Khánh nhượng Hải Phòng để xây dựng thành phố bằng Sắc lệnh do Tổng thống Pháp Sadi Carnot kí. Đến ngày 31/01/1898, toàn quyền Đông Dương tách Tf Hải Phòng ra khỏi tỉnh Hải Phòng, chuyển tỉnh lị về Phủ Liễn. Ngày 05/8/1902 tỉnh Hải Phòng đổi thành tỉnh Phù Liễn sau đó ngày 17/2/1906 thành tỉnh Kiến An 建安. Từ đó, thành phố Hải Phòng là thành phố thuộc địa (nhượng địa) do Pháp lập Toà Đốc lý trực tiếp cai trị, Kiến An là tỉnh Bảo hộ (protectorat) vẫn duy trì bộ máy vua quan phong kiến cai trị thuộc xứ Bắc Kỳ (Tonkin, theo Hòa ước Quý Mùi hay Hiệp ước Harmand, 25/8/1883) bên cạnh Tòa Công sứ do người Pháp nắm quyền.
Từ sau 8/1945 và sau 1955 địa danh Hải Phòng, Kiến An không có gì thay đổi chỉ có điều chỉnh về địa giới một số huyện giữa các tỉnh, thành Hải Phòng, Kiến An, Quảng Yên và Hải Dương
Thành phố Hải Phòng ngày nay được Quốc Hội Nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (nay là Quốc Hội Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) Quyết định thành lập vào ngày 27/10/1962, trên cơ sở hợp nhất thành phố Hải Phòng cũ và tỉnh Kiến An.
2. Có nhiều giả thiết về nguồn gốc địa danh Hải Phòng:
- Là tên gọi rút ngắn trong cụm từ Hải tần phòng thủ 海嬪防守, chức (?) của Đông Triều công chúa, lĩnh ấn Trấn Đông đại tướng quân, thống lĩnh đạo quân Nam Hải là Lê Chân (?-43, con của Lê Đạo và Trần Thị Châu) đầu thế kỷ I.
- Là tên gọi rút ngắn từ tên gọi của một cơ quan đời Tự Đức (嗣德, 1848-1883) trên đất Hải Dương lập năm 1870: Nha thương chính 商政 ( còn gọi là Sở Đoan) trực thuộc Đốc bộ đường tỉnh Hải Dương nên tên đầy đủ là Hải Dương thương chính nha 海陽 貿易商館. Con dấu của nha này ghi: "Hải Dương thương chính quan phòng" tức dấu của Nha thương chính Hải Dương. Nha này đặt ra nhiều địa phương ven biển hoặc có đường biên giới giáp nước ngoài với chức năng là cơ quan bảo vệ, canh phòng chủ quyền đất nước. Tên gọi này sau được Jean Dupuis (1828-1912, là một nhà thám hiểm và thương nhân người Pháp) khi khám phá vùng sông Hồng cho mục đích thương mại năm 1872 ghi lại và trên lược đồ của Pháp năm 1874 cũng đã thấy ghi lại hai chữ Hải Phòng.
- Bắt nguồn từ Ty sở nha Hải Phòng hoặc đồn Hải Phòng 海防兵力 (có chức năng là cơ quan bảo vệ, canh phòng chủ quyền đất nước) do Cử nhân Bùi Viện (, 1839 - 1878) lập năm năm 1871 gần cảng Ninh Hải khi ông giúp Lê Tuấn (黎峻, ?- 1884), Tham tri Bộ Lễ 禮部參知 ra Bắc dẹp loạn. Việc này có thể do lúc đầu người Pháp chỉ được đóng quân ở đồn Hải Phòng mà không được đóng quân ở đồn Ninh Hải. Vì vậy họ quen dùng tên Hải Phòng, tên gọi này phát âm dễ hơn tên Ninh Hải (đối với người Pháp).
- Do Phạm Phú Thứ (范富庶, 1821–1882) đặt năm 1877 khi ông Tiến sĩ cập đệ 進士科 (Khóa thi Quý Mão, 1843) này làm tổng đốc Hải Yên 海安總督 (còn gọi là Hải An, gồm Hải Dương 海陽 và Quảng Yên 安廣, 1874-1878), kiêm sung Tổng lý thương chính Đại thần 総理貿易商大臣. Địa danh này có nghĩa là "Phòng vệ bờ biên " đất nước.

Lương Đức Mến (STBS), ngày 12//5/2015

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét